Cấy ghép tủy xương - Vai trò trong điều trị bệnh lý ác tính
Trong vòng 40 năm trở lại đây, ghép tủy xương và ghép tế bào gốc tạo máu ngày càng được thực hiện thường xuyên hơn để điều trị nhiều bệnh lý ác tính và không ác tính.
Năm 1968, điểm mốc quan trọng đầu tiên về ghép tủy xương diễn ra với những trường hợp dị ghép thành công được thực hiện trên một trẻ suy giảm miễn dịch thiếu lympho bào liên kết với nhiễm sắc thể X (X-linked lymphopenic immune deficiency) và một trẻ khác bị hội chứng Wiskott-Aldrich. Các thành công này được tiếp nối bởi những báo cáo về cấy ghép hiệu quả đối với thiếu máu bất sản tủy (aplastic anemia) và kế đến là cho bệnh ung thư bạch cầu. Các tiến bộ về kiểm tra tính thuận hợp mô học (histocompatibility testing) và sự phát triển của việc đăng ký hiến tủy, như Chương trình hiến tủy quốc gia Mỹ (National marrow donor program = NMDP) chẳng hạn, đã tạo điều kiện dễ dàng cho việc dùng tủy của những người hiến tặng không có quan hệ gia đình với người nhận, do đó, số bệnh nhân được ghép tủy ngày càng tăng.
Máu dây rốn - Nguồn cung cấp tế bào gốc. |
Tỷ lệ sống sót 5 năm không ung thư bạch cầu ở 503 trẻ em bị ung thư bạch cầu cấp dòng lymphô được cấy ghép bằng máu dây rốn có 1 hoặc 2 antigen bạch cầu người không phù hợp tương tự với tỷ lệ sống sót ở 282 trẻ được ghép bằng tủy xương. Số lượng tế bào hạn chế trong máu dây rốn đã giới hạn việc sử dụng nó ở trẻ em và thiếu niên. Nghiên cứu để làm tăng lượng máu dây rốn và việc truyền nhiều đơn vị cho một bệnh nhân sẽ khiến nguồn cung cấp tế bào gốc này trở nên thường quy hơn và sẵn sàng để cung ứng cho mọi người bệnh.
Ngoài tủy xương và máu dây rốn, tế bào gốc ở máu ngoại biên cũng đã được biết đến như một nguồn cung cấp tế bào gốc từ những năm 1980.
Trọng tâm nghiên cứu hiện nay chủ yếu hướng đến việc làm giảm độc tính và bệnh mô ghép tấn công ký chủ trong khi vẫn làm sao để tăng số lượng người hiến tặng có tiềm năng bằng cách phát triển những kỹ thuật để vượt qua được rào cản bất tương hợp mô học HLA truyền thống một cách hiệu quả hơn. Các cấy ghép sẽ được thực hiện với những độ bất thuận hợp tăng cao hơn. Các nỗ lực để giảm độc tính và tỷ lệ tử vong liên quan đến cấy ghép đang được thực hiện bằng cách dùng những chiến lược như điều trị không diệt tủy với tăng cường ức chế miễn dịch quanh giai đoạn cấy ghép và ức chế miễn dịch sau cấy ghép để đạt được cấy ghép cục bộ. Sau đó sẽ tiếp tục truyền bạch cầu của người hiến tặng để đạt được sự lai ghép di truyền hoàn toàn. Ngoài ra, việc truyền bạch cầu của người hiến tặng cũng đã được dùng với tần số tăng dần để điều trị các bệnh nhân ung thư bạch cầu tái phát sau cấy ghép.
Máu dây rốn vẫn là một nguồn tế bào gốc tạo máu đầy hứa hẹn. Việc dùng nhiều đơn vị máu dây rốn để ghép cho những bệnh nhân to lớn hơn tiếp tục được nghiên cứu trong các thử nghiệm mang tính toàn quốc ở Mỹ về ghép tủy xương - mạng lưới thử nghiệm làm tìm hiểu về hiệu quả của việc cấy ghép máu từ 2 dây rốn. Tiềm năng tạo hình của tế bào gốc trong máu dây rốn hứa hẹn tái tạo lại nhiều loại tế bào đa dạng như tế bào tim, nội tiết, và thần kinh mà không đi kèm những bất đồng về mặt đạo đức y học như đối với các tế bào gốc từ bào thai.
Hiện đang tiếp tục nghiên cứu để mở rộng các chỉ định cấy ghép. Các dữ liệu sơ bộ cho cho thấy, khả năng của cấy ghép trong việc điều trị các bệnh tự miễn như Lupus, đa xơ cứng hệ thống và viêm khớp dạng thấp ở người trẻ. Ngoài ra, việc cấy ghép trong lòng tử cung mang lại triển vọng cho việc điều trị can thiệp sớm các bệnh di truyền, và một số thành công bước đầu đã được chứng minh đối với các hội chứng suy giảm miễn dịch.
Việc sử dụng liệu pháp gen với mục tiêu là máu dây rốn có thể đem đến những hứa hẹn về điều trị các bệnh di truyền. Gần đây, các tế bào gốc tạo máu và các týp tế bào nguyên thủy khác cũng cho thấy có khả năng biệt hóa thành những tế bào trưởng thành đa dạng khi nhận được những tín hiệu phân bào tương ứng. Điều này đem đến hy vọng phục hồi lại các chức năng của cơ tim bị bệnh hoặc tái tạo lại những mô thần kinh bị tổn thương. Việc cấy ghép các tế bào gốc tạo máu tiếp tục là lĩnh vực tiên phong trong việc điều trị các bệnh của loài người.
Cứu sống bé gái 3 tháng tuổi bị tim bẩm sinh mắc COVID-19 nguy kịch
Thành tựu y học - 3 năm trướcGiadinhNet - Bệnh nhi bị tim bẩm sinh, chẩn đoán COVID-19 nặng nguy kịch, được ê-kip bác sĩ Bệnh viện Nhi đồng Thành phố điều trị tích cực để giành mạng sống.
Dụ các tế bào ung thư "ăn" độc dược
Y tế - 5 năm trướcSử dụng chất béo làm chú ngựa thành Troy, các nhà khoa học Mỹ đã loại bỏ hoàn toàn ung thư xương, tụy và ruột kết một cách thần kỳ trên các con vật thí nghiệm.
Thêm một thành công điều trị sẹo bỏng bằng kỹ thuật đặt túi giãn da ở Bệnh viện Xanh Pôn
Y tế - 5 năm trướcGiadinhNet - Bệnh nhi bị sẹo bỏng axit khiến mất 3/4 da đầu, sẹo chằng chịt... được đặt túi giãn vùng da đầu để tiếp tục điều trị, sớm có lại diện mạo bình thường để hòa nhập với cộng đồng.
Dùng "công tắc" điều khiển "cậu nhỏ" theo ý muốn
Y tế - 5 năm trướcBệnh viện Bình Dân TP HCM vừa triển khai kỹ thuật mới điều trị tình trạng rối loạn cương, mở ra cơ hội cho quý ông mắc bệnh "trên bảo dưới không nghe".
Phát hiện lạ cực sốc về thuốc điều trị AIDS
Y tế - 5 năm trướcCác nhà khoa học đã điều chế một loại thuốc ức chế HIV có thể làm cho AIDS không thể lây truyền ngay cả trong các cặp đồng tính quan hệ tình dục mà không sử dụng bao cao su.
Phát hiện thuốc tiểu đường giá rẻ là "thần dược" giảm cân
Y tế - 5 năm trướcMột loại thuốc tiểu đường vừa được Đại học Bang Louisiana (Mỹ) chứng minh có tiềm năng thành lối thoát cho những người béo phì đã nỗ lực giảm cân nhưng không thành.
Phát hiện liên hệ đáng sợ giữa viên uống canxi và ung thư
Y tế - 5 năm trướcBổ sung canxi quá liều bằng viên uống bổ sung có thể làm nguy cơ tử vong do ung thư tăng gấp đôi, một nghiên cứu lớn của Mỹ khẳng định.
Kỹ thuật thay van tim không phẫu thuật
Y tế - 5 năm trướcĐược phát triển từ một thập kỷ trước, thay van động mạch chủ qua đường ống thông (Transcatheter Aortic Valve Replacement, TAVR) là một thủ thuật ít xâm lấn, đưa van nở đi qua ống thông vào mạch máu đến tim và đặt bên trong van cũ. TAVR thường chỉ áp dụng cho người có nguy cơ tử vong cao sau phẫu thuật.
Bệnh nhân ung thư chỉ cần 6 lần xạ trị thay vì 25-35 lần như trước
Y tế - 5 năm trướcTrước đây, chỉ định điều trị cho bệnh nhân ung thư có phác đồ xạ trị từ 25-35 lần, mỗi ngày một lần. Với kỹ thuật mới được đưa vào ứng dụng, số lần xạ trị cho bệnh nhân có thể rút ngắn xuống còn 6 lần.
Phát hiện hợp chất trong cà phê ức chế "ung thư đàn ông"
Y tế - 5 năm trướcCác nhà khoa học Nhật Bản vừa xác định được 2 hợp chất trong cà phê có thể ức chế loại ung thư đặc trưng và phổ biến ở đàn ông – ung thư tuyết tiền liệt.
Thêm một thành công điều trị sẹo bỏng bằng kỹ thuật đặt túi giãn da ở Bệnh viện Xanh Pôn
Y tếGiadinhNet - Bệnh nhi bị sẹo bỏng axit khiến mất 3/4 da đầu, sẹo chằng chịt... được đặt túi giãn vùng da đầu để tiếp tục điều trị, sớm có lại diện mạo bình thường để hòa nhập với cộng đồng.