Hà Nội
23°C / 22-25°C

Bí ẩn lạc nội mạc tử cung

Thứ sáu, 11:14 09/03/2012 | Nghiên cứu - Trao đổi

Đã nhiều lý thuyết về nguyên nhân gây ra lạc nội mạc tử cung (LNMTC), nhưng đều chưa được nhất trí hoàn toàn.

Chỉ có lý thuyết do bác sĩ John Sampson nêu ra từ thập kỷ 20 thế kỷ trước là được tán thành nhiều nhất. Đó là lý thuyết về sự trào ngược của máu kinh.

Như lạc vào cả rừng nguyên nhân

Đã nhiều lý thuyết về nguyên nhân gây ra lạc nội mạc tử cung (LNMTC), nhưng đều chưa được nhất trí hoàn toàn, chỉ có lý thuyết do bác sĩ John Sampson nêu ra từ thập kỷ 20 thế kỷ trước là được tán thành nhiều nhất. Đó là lý thuyết về sự trào ngược của máu kinh: Các mô bong ra của máu kinh trào ngược trở lại hai vòi trứng và tụ lại trên các cơ quan trong tiểu khung như những hạt mầm sau đó phát triển. Nhiều nghiên cứu đều có sự trào ngược máu kinh, nhưng chỉ có số ít bị LNMTC, cho nên trong nguyên nhân có lẽ còn có vai trò khởi động của hệ miễn dịch hay của hormone. Lý thuyết máu kinh trào ngược cũng không giải thích được vì sao LNMTC lại phát triển ở những phụ nữ đã bị cắt tử cung hay vòi trứng…

Lý thuyết gien học cho rằng mỗi phụ nữ có cấu trúc gien học thuận lợi để phát bệnh, đó là đối tượng có họ hàng gần với những phụ nữ đã bị LNMTC. Khi đã có mối liên hệ di truyền nguy cơ bệnh có xu hướng phát triển xấu hơn ở thế hệ sau.

Nhiều lý thuyết khác cho rằng các mảnh của nội mạc tử cung đã theo dòng máu hay theo hệ bạch huyết để đi tới các bộ phận khác của cơ thể, vì thế có nhiều trường hợp LNMTC đã phát triển ở phổi, não, da hay mắt. Chưa hết, nhiều người còn tin rằng có những tế bào phôi lạc chỗ đã gây ra LNMTC hoặc một số tế bào trưởng thành vẫn còn lưu giữ được khả năng của giai đoạn phôi để chuyển thành mô của giai đoạn sinh sản.

Trên thực tế, 79% số khỉ phơi nhiễm với chất dioxin đã phát triển LNMTC; những con khỉ bị phơi nhiễm nhiều nhất có tổn thương LNMTC rộng nhất. Chất dioxin là một thành phần của nhóm chlorine hữu cơ (organochlorine) và các nghiên cứu đã cho thấy nhóm này hoạt động như hormone trong cơ thể. Dioxin được tạo ra từ tiến trình đốt các chất thải có chlore, xăng pha chì và trong tiến trình sản xuất các chất dẻo PVC. Dioxin cũng có thể có trong các đồ tẩy trắng, đáng báo động nhất là có cả trong một số sản phẩm vệ sinh phụ nữ.

Tần suất bị bệnh?

LNMTC được xem là bệnh “bình đẳng” về cơ hội, có nghĩa phụ nữ các nước có tỷ lệ mắc bệnh gần như giống nhau. Ước tính ở Mỹ có đến hơn 5 triệu phụ nữ bị bệnh và là nguyên nhân chính gây ra đau vùng tiểu khung, nhưng vẫn là một trong những bệnh chưa được hiểu rõ nhất trong thời đại hiện nay.

Các dấu hiệu báo động

Trước hết cần biết, LNMTC là bệnh rất khó nắm bắt, khó xác định, không theo quy luật và có biểu hiện rất đa dạng. Triệu chứng của bệnh phụ thuộc vào vị trí LNMTC, cho nên mỗi cá thể có bệnh cảnh khác nhau. Nói chung, một số triệu chứng chuẩn mực của LNMTC bao gồm đau vùng tiểu khung, đau trước và/hoặc sau khi hành kinh, những cơn đau quặn nặng đến mức phải dùng đến aspirin, đau khi quan hệ tình dục, đau khi có khoái cảm đỉnh điểm, ra máu kinh nhiều hay kinh nguyệt không đều, nhu động ruột đau (thường kèm với những chu kỳ kinh có tiêu chảy hay táo bón), hiếm muộn, suy yếu về đường ruột (thể hiện chướng bụng, nôn, buồn nôn), đau vùng thắt lưng và có thể lan xuống cẳng chân, đau vùng bàng quang và/hoặc đái nhiều, mỏi mệt. Tuy nhiên một số phụ nữ không hề có triệu chứng gì và thậm chí không biết mình bị bệnh cho tới khi phát hiện hiếm muộn. Điều ngạc nhiên là mức độ nghiêm trọng của LNMTC không hề liên quan đến mức độ đau mà người phụ nữ trải nghiệm.

Chuẩn đoán LNMTC bằng cách nào? Cho tới nay, cách thức duy nhất để chuẩn đoán LNMTC là soi ổ bụng (đưa ống soi qua những lỗ mở nhỏ ở thành bụng).

Vì chuẩn đoán bằng quan sát có thể nhầm lẫn, cho nên trường hợp nghi ngờ LNMTC vẫn thường được cắt bỏ để làm xét nghiệm. Thầy thuốc có thể cảm nhận được tổn thương LNMTC qua thăm khám tiểu khung và lịch sử các triệu chứng của bệnh nhân. Tuy nhiên, soi ổ bụng cộng với sinh thiết thường đem lại bằng chứng quyết định về mức độ nghiêm trọng của bệnh và cũng thường có thể tiến hành điều trị đồng thời.

Điều trị LNMTC

Có nhiều cách nhưng cách nào cũng cần cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ. Những loại thuốc dùng để điều trị LNMTC bao gồm những tân dược có thể làm cho người phụ nữ dễ bước vào mãn kinh sớm (thuốc chủ vận GnRH và danazol) và những thuốc làm cho tổn thương LNMTC co lại bằng cách ức chế rụng trứng (dùng các viên thuốc tránh thai và các viên thuốc hay thuốc tiêm chỉ có progesterone). Những tác dụng phụ có thể nghiêm trọng với nhiều loại thuốc trong số này và tái phát sau khi ngừng thuốc vẫn coi là vấn đề nan giải.

Can thiệp ngoại khoa bảo tồn là một lựa chọn khác, có mục tiêu là loại bỏ hay huỷ diệt tổn thương LNMTC và phục hồi cấu trúc giải phẫu đã biến đổi. Khi tổn thương LNMTC đã được loại bỏ cảm giác đau có thể giảm. Nếu tổn thương LNMTC ảnh hưởng đến khả năng sinh sản thì can thiệp phẫu thuật có thể giải quyết vấn đề. Ngày nay can thiệp phẫu thuật để loại bỏ LNMTC thường được thực hiện bằng phương pháp soi ổ bụng. Nhiều thầy thuốc có tay nghề cao đã có thể chuẩn đoán và điều trị LNMTC qua soi ổ bụng, nhưng với tổn thương LNMTC lớn (ví dụ cần phải cắt bỏ một đoạn ruột) thì vẫn có chỉ định phải mở ổ bụng, tất nhiên trong trường hợp này cần đường rạch rộng và thời gian hồi phục cũng lâu hơn. Đôi khi cần can thiệp ngoại khoa triệt để, bao gồm cắt bỏ tử cung, hai buồng trứng và cả tổn thương LNMTC và trường hợp này có lẽ là sự lựa chọn khó khăn nhất mà bệnh nhân phải đối mặt.

Nhiều lựa chọn điều trị khác chỉ là dùng thuốc giảm đau, phong bế thần kinh hay châm cứu. Vì các triệu chứng của LNMTC vẫn có thể còn tiếp diễn sau khi điều trị cho nên một số phụ nữ vẫn tìm đến các liệu pháp phi truyền thống khác để giảm đau như dùng thuốc nam (thảo mộc), thay đổi chế độ ăn, bổ sung vitamin, các kỹ thuật thư giãn, kiểm soát dị ứng và liệu pháp miễn dịch.

Khi nào cắt tử cung là lựa chọn duy nhất điều trị LNMTC?

Trước đây cắt tử cung được chỉ định rộng rãi hơn ngày nay, nhưng can thiệp này vẫn cần thiết khi các liệu pháp khác thất bại. Nhiều khi còn cắt bỏ cả hai buồng trứng khi cắt tử cung vì đem lại hiệu quả giảm đau lâu dài hơn.

Về phía người bệnh, có cả những phản hồi tích cực và tiêu cực với can thiệp cắt tử cung kèm hai buồng trứng. Có người bệnh cho rằng can thiệp này là cách duy nhất để có chất lượng sống, nhưng người khác lại cho rằng sẽ phải trả giá cao vì can thiệp này. Vì sau cắt tử cung, về mặt cảm xúc người phụ nữ cảm thấy như có sự mất mát, không chỉ là cơ quan sinh sản mà còn là một phần cơ thể. Nhiều phụ nữ còn cần đến liệu pháp hormone thay thế, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng nên trì hoãn liệu pháp hormone thay thế một thời gian sau khi đã cắt tử cung và hai buồng trứng, để các tổn thương LNMTC “chết hẳn” vì estrogen vẫn thường cho là hormone có ảnh hưởng đến sự phát triển của LNMTC.

Có thể gây vô sinh?

Rõ ràng không ít trường hợp LNMTC ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh sản, như gây dính vòi trứng hoặc cản trở sự phóng noãn của buồng trứng. Ngay cả khi tổn thương LNMTC rất nhỏ cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Sự hiện diện của LNMTC dù ở giai đoạn nào cũng có thể ảnh hưởng đến sự làm tổ và hoạt động của hệ miễn dịch ở một số phụ nữ. Có nghiên cứu cho thấy can thiệp soi ổ bụng ở những phụ nữ hiếm muộn bị LNMTC nhẹ đã phát tác dụng cải thiện khả năng sinh sản. Các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy ở phụ nữ hiếm muộn bị LNMTC nguy cơ cao hơn bị tăng nồng độ APA (antiphospholipid antibodies – kháng thể chống phospholipid) – nồng độ cao của kháng thể này có liên quan đến nguy cơ sảy thai tái diễn, thai chậm phát triển trong tử cung và tiền sản giật.

Ngoài ra, LNMTC cũng có thể liên quan đến sự thiếu hụt beta – 3, hợp chất cần thiết cho tiến trình trứng đã thụ tinh làm tổ. LNMTC còn có thể làm tăng khả năng phát triển thực bào – thủ phạm tiêu diệt trinh trùng, trứng hay phôi. Một nghiên cứu khác cho thấy có mối liên hệ giữa LNMTC và tình trạng sản xuất trứng chất lượng kém.

Tuy nhiên, không phải tất cả phụ nữ bị LNMTC đều bị những tác động tiêu cực đã kể, thực tế nhiều người vẫn có thai bình thường. Với một số người gặp khó khăn giải pháp can thiệp ngoại khoa thường tạo cơ hội gia tăng cơ may có thai. Nếu vẫn tiếp tục gặp khó khăn thì có thể tìm đến các phương pháp hỗ trợ sinh sản như thụ tinh trong tử cung hay thụ tinh ống nghiệm.
 
Theo BS Đào Xuân Dũng
Tri thức trẻ
thanhloan
Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn

Qua ứng dụng S-Health, bất ngờ trước những căn bệnh người già gặp phải (kỳ 2): Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi nói riêng trong thời đại công nghệ số 4.0

Qua ứng dụng S-Health, bất ngờ trước những căn bệnh người già gặp phải (kỳ 2): Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi nói riêng trong thời đại công nghệ số 4.0

Dân số và phát triển - 2 năm trước

GiadinhNet - Thoái hóa đốt sống lưng tình trạng nặng có thể gây liệt nửa người, nhiều người bệnh rồi mà không biết rèn luyện thể lực, cũng không biết "Ứng dụng chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (S-Health)" để được nhắc nhở, hướng dẫn, hay cấp cứu kịp thời.

Dùng thuốc trị động kinh khi mang thai, tăng nguy cơ trẻ mắc bệnh tự kỷ

Dùng thuốc trị động kinh khi mang thai, tăng nguy cơ trẻ mắc bệnh tự kỷ

Dân số và phát triển - 3 năm trước

Phụ nữ dùng thuốc trị động kinh acid valproic trong thời kỳ mang thai có nguy cơ sinh con mắc bệnh tự kỷ cao hơn gấp đôi, một nghiên cứu mới đây cho thấy.

Lộ sự thật về chứng "lên đỉnh" dồn dập ở chị em

Lộ sự thật về chứng "lên đỉnh" dồn dập ở chị em

Dân số và phát triển - 4 năm trước

Các nhà khoa học Harvard cuối cùng đã tìm ra nguyên nhân và chữa khỏi cho một số phụ nữ khổ sở bấy lâu nay vì cả trăm cơn "lên đỉnh" dồn dập mỗi ngày.

Tạo phôi thai chuột không cần trứng và tinh trùng

Tạo phôi thai chuột không cần trứng và tinh trùng

Dân số và phát triển - 4 năm trước

Các tế bào gốc này có khả năng tạo ra cả ba loại tế bào được tìm thấy trong phôi sớm.

Bao cao su đầu tiên được thiết kế để tiêu diệt virus HIV

Bao cao su đầu tiên được thiết kế để tiêu diệt virus HIV

Nghiên cứu - Trao đổi - 9 năm trước

Kết quả kiểm tra đã cho thấy bao cao su VivaGel có hiệu quả trong việc khử 99,9% virus HIV, herpes và các virus u nhú ở người.

Cho tương lai phát triển bền vững

Cho tương lai phát triển bền vững

Nghiên cứu - Trao đổi - 9 năm trước

GiadinhNet - Báo cáo số liệu Thanh niên Thế giới năm 2013 của Văn phòng Tham chiếu Dân số Hoa Kỳ (PRB) cho thấy, trên thế giới hiện nay, thanh niên (nhóm dân số từ 10-24 tuổi) là hơn 1,8 tỷ người, chiếm 25% tổng dân số thế giới.

Thử nghiệm mới giúp tăng tỉ lệ thụ tinh trong ống nghiệm thành công

Thử nghiệm mới giúp tăng tỉ lệ thụ tinh trong ống nghiệm thành công

Nghiên cứu - Trao đổi - 9 năm trước

Theo các nhà nghiên cứu từ Đại học Oxford (Anh), các tế bào sản xuất năng lượng sản sinh ra nhiều DNA trong phôi thai là một tín hiệu có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi khiến người phụ nữ được thụ tinh trong ống nghiệm nhưng không thành công.

Thêm một nguyên nhân khó thụ thai bị nhiều người bỏ qua

Thêm một nguyên nhân khó thụ thai bị nhiều người bỏ qua

Nghiên cứu - Trao đổi - 9 năm trước

Phụ nữ có lượng cholesterol cao sẽ mất nhiều thời gian để thụ thai hơn những người có lượng cholesterol bình thường.

Thuốc ngừa thai không giết chết khoái cảm tình dục

Thuốc ngừa thai không giết chết khoái cảm tình dục

Nghiên cứu - Trao đổi - 9 năm trước

Nghiên cứu mới của các nhà khoa học Anh, Scotland và Cộng hòa Czech cho thấy thuốc ngừa thai không giết chết ham muốn tình dục nhưng chính việc ngưng sử dụng thuốc có thể ảnh hưởng lên khoái cảm của người phụ nữ.

Những bí mật liên quan đến hệ thống sinh sản của phụ nữ

Những bí mật liên quan đến hệ thống sinh sản của phụ nữ

Chất lượng cuộc sống - 10 năm trước

Màng trinh là phần vô ích, tử cung có khả năng siêu đàn hồi, trong âm đạo có tính axit, không thể xác định chính xác lúc thụ thai... là những điều có thể bạn chưa biết về bộ máy sinh sản nữ giới.

Top