Hà Nội
23°C / 22-25°C

Tác động của mức sinh thấp và kinh nghiệm từ các nước

Thứ ba, 17:28 20/03/2012 | Nghiên cứu - Trao đổi

GiadinhNet - Mức sinh thấp tác động trực tiếp đến tỷ lệ tăng dân số tự nhiên và quy mô dân số.

Đông Tây kêu gọi tăng sinh
 
Joseph Chamie - Chuyên gia của Liên hợp quốc - đã liệt kê 25 vấn đề (Joseph Chamie, UN, 2004) mà chính phủ các nước đã thực hiện nhằm làm tăng sinh hoặc duy trì mức sinh như hạn chế tránh thai, xây dựng các chiến dịch quan hệ công chúng nhằm giúp họ kết hôn, sinh con, các chính sách ưu đãi khi sinh con, hỗ trợ việc làm, giáo dục cho phụ nữ, kêu gọi trách nhiệm và chia sẻ trách nhiệm của nam giới với phụ nữ…
 
Câu hỏi đặt ra là: Vì sao mức sinh thấp lại được chính phủ các nước đặc biệt quan tâm đến vậy? Mức sinh thấp trong một thời gian dài sẽ dẫn đến những hệ luỵ gì cho sự phát triển bền vững của quốc gia?
 
Thông điệp ngày đầu năm
Trong thông điệp đón chào Tết nguyên đán (2004), Thủ tướng Singapore, ông Goh Chok Tong đã nói “mức sinh thấp là một mối quan tâm lớn” (của chính phủ) và ông kêu gọi người dân hãy có thêm con trong dịp năm mới (Daily Express New, 2004).

Tại Nhật Bản, đã từ lâu, các nhà hoạch định chính sách luôn lo lắng về mức sinh thấp của quốc gia mình tại đây, họ cũng thường xuyên tổ chức các chuyến đi nghỉ leo núi hay xuống biển cho những người độc thân với mong muốn họ có thể kết bạn, lập gia đình và có con (Financial Times, 2003).
 
Còn ở Hàn Quốc, Chính phủ đã mở hẳn một chiến dịch với slogan “Hãy có thêm một đứa trẻ” (Let’s Have One More Kid”). Seol cũng mở rộng chính sách giảm thuế đối với những gia đình có trẻ nhỏ, đồng thời tăng cường việc hỗ trợ cho các trung tâm nuôi dạy trẻ để giúp các bà mẹ có thêm thời gian làm việc (Korea Herald, 2003).
 
Tại Anh, Văn phòng Thống kê Quốc gia (Office of National Statistics) kêu gọi phụ nữ nên có 3 con để giúp duy trì dân số nước Anh trong khoảng 59 triệu người (Daily Telegraph, 2003). Tại Italy, chính phủ sẽ tặng 1000 euros cho bà mẹ nào sinh được đứa trẻ thứ 2 trong năm 2004 (Reuters, 2003).
 
Tại Pháp, mỗi bà mẹ sẽ được nhận €800 (£560, $895) nếu sinh được con sau ngày 1/1/2004 (British Medical Journal, 2003)… Có thể nói, hầu khắp các quốc gia ở Âu châu đều có các chính sách hỗ trợ tích cực cho việc tăng sinh như thưởng tiền, ưu đãi về y tế, giáo dục, việc làm, nhà ở…

Tác động của mức sinh thấp

Mức sinh thấp tác động trực tiếp đến tỷ lệ tăng dân số tự nhiên và quy mô dân số. Ta có phương trình dân số đơn giản như sau: P(t 1) = Pt B – D M, trong đó, P(t 1) là tổng dân số của năm được tính, Pt là dân số năm gốc, B là số sinh, D là số chết và M là số di cư. Bất cứ sự biến động nào của bất cứ yếu tố nào trong phương trình trên đều tác động đến sự tăng hay giảm quy mô dân số.

Mức sinh là một yếu tố cấu thành của dân số. Qua các số liệu được phân tích tại kỳ 2 cho thấy, khi mức sinh quá thấp, không đủ sản sinh ra những đoàn hệ thay thế cha mẹ trong một thời gian dài đã tác động trực tiếp đến tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên và làm cho quy mô dân số của một loạt nước đang ngày càng bị thu hẹp.

Mức sinh thấp trong thời gian dài cũng sẽ có những tác động sâu sắc đến cơ cấu dân số. Đó là số người cao tuổi (65 ) ngày càng tiếp tục tăng lên trong khi số người được sinh ra ngày càng ít đi. Cùng với những thành tựu về khoa học, những ứng dụng kỹ thuật trong y học… tuổi thọ con người ngày một gia tăng càng làm cho tỷ trọng người già trong dân số chiếm số đông. Quốc gia đó sẽ có cơ cấu dân số già, siêu già. Tháp dân số của Nhật Bản năm 2050 dưới đây là một ví dụ điển hình.
 
 
Mức sinh thấp trong một thời gian dài và với việc chuyển đoàn hệ trong dân số sẽ làm cho dân số trong độ tuổi lao động-lực lượng chính tạo ra các của cải vật chất và sự phát triển của xã hội- sẽ ngày càng bị thu hẹp, trong khi tỷ lệ người già lại gia tăng nhanh chóng.
 
Một vấn đề quan trong không kém: Mức sinh thấp sẽ tác động đến di cư (đi và đến) và các chính sách di cư của chính phủ. Do mức sinh thấp, lực lượng lao động thiếu hụt, để đáp ứng nhu cầu sản xuất, phát triển trong nước, chính sách nhập cư của các quốc gia này buộc phải nới lỏng.
 
Hơn nữa, các quốc gia có mức sinh thấp cũng là những quốc gia phát triển với những chính sách ưu đãi về an sinh xã hội, giáo dục… đã là điểm đến đầy hấp dẫn đối với các dòng di cư từ các quốc gia đang phát triển.
 
“Các quốc gia ở châu Âu đã phụ thuộc vào người nhập cư để phát triển kinh tế trong một thời gian dài” (Hans-Peter Kohler, 2006). Năm 2000, Liên hợp quốc đã đưa ra khái niệm“dư cư thay thế” (Replacement migration) và đặt ra câu hỏi phải chăng dư cư thay thế như một sự cứu cánh cho các quốc gia có mức sinh thấp và dân số già?

Các nhà khoa học cũng đã đưa ra các con số khuyến cáo về số người nhập cư trong di cư thay thế hàng năm tại các quốc gia như: Châu Âu: 3,230 ngàn người, Mỹ: 360 ngàn người, Canada: 165 ngàn người, Nhật Bản: 650 ngàn người…
 
Rõ ràng rằng, đằng sau những con số khổng lồ về dòng người di cư là hàng loạt các vấn đề về an sinh xã hội, trật tự an ninh, quốc phòng mà mỗi quốc gia đang phải đối mặt mà những vấn đề đó, một phần được khởi nguồn từ mức sinh quá thấp trong một thời gian quá dài.
 
Vì sự ổn định xã hội và phát triển đất nước
 
Như trên đã phân tích ở trên, do mức sinh thấp và kéo dài trong thời gian dài đã dẫn đến sự thiếu hụt lực lượng lao động trầm trọng, khiến cho những quốc gia này phải phụ thuộc nhất định vào lực lượng nhập cư mỗi năm để tham gia vào quá trình sản xuất, vận hành nền kinh tế đất nước.
 
Để thu hút lực lượng này, các chính sách về nhập cư buộc phải nới lỏng và các dịch vụ đi kèm để cung cấp cho người nhập cư như nhà ở, trường học, bệnh viện…. Dòng người di cư này cũng tạo nên những áp lực không nhỏ đối với các chính phủ nơi đến do những khác biệt về sắc tộc, tôn giáo, văn hoá, kỹ năng làm việc, cạnh tranh việc làm… và những khác biệt này có nguy cơ dẫn đến các xung đột.

Tỷ trọng người già ngày càng tăng lên trong dân số, đòi hỏi các quỹ phúc lợi xã hội cho hưu trí, khám chữa bệnh cho người cao tuổi cũng tăng lên trong khi lực lượng tham gia lao động để tạo ra các giá trị thặng dư cho xã hội đang ngày càng thiếu hụt.

Với khác biệt của nền văn hoá Á Đông, đặc biệt là tại Trung Quốc, những đứa trẻ hiếm hoi được sinh ra và chăm sóc bởi 6 người lớn trong gia đình bao gồm 4 ông bà nội, ngoại và 2 bố mẹ mà các nhà nhân khẩu học gọi là “xã hội 4-2-1” (demographers call a "4-2-1" society-Phillip Longman, Foreign policy, 2010).
 
Những đứa trẻ được chăm sóc quá kỹ lưỡng bởi rất nhiều người trong gia đình, khi lớn lên dễ bị tổn thương, dễ nổi nóng và khó hoà nhập xã hội. “Ba mươi năm sau, khi lớn lên, làm thế nào để anh ta/chị ta có thể nuôi sống được 6 người lớn bao gồm 4 ông bà nội, ngoại, 2 bố mẹ và bản thân mình?” (Wendell Cox and Emma Chen, 2012).
 
Phân tích về tình trạng mức sinh ngày một thấp trong khi già hoá ngày một gia tăng với hơn nửa dân số thế giới sẽ bước vào tuổi 60 và chỉ 6% dưới 30 tuổi, Phillip Longman đã dự báo sẽ có một trận “sóng thần” (gray tsunami) càn két qua hành tinh của chúng ta (Phillip Longman, Foreign policy, 2010).
 
Trên trang China.org.cn có bài viết cho rằng TFR thấp sẽ là “một cảnh báo nghiêm trọng” (a serious warning, 2011) cho các vấn đề dân số của Trung Quốc. Bài viết cũng cho biết rất nhiều học giả dự báo rằng TFR của Trung Quốc sẽ thấp hơn 1,5 và thậm chí đến 1,3- mức rất thấp (extremely low levels). 
 
Hiện nay, thế hệ 8x mong muốn số con ít hơn thế hệ 7x; thế hệ 9x lại mong muốn số con ít hơn thế hệ 8x. Bài viết cũng không quên nêu lên các quan ngại về tác động sâu sắc đến giới trẻ trong tương lai của “xã hội 4-2-1” hôm nay. Những hiện trạng của ngày hôm nay sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển bền vững của xã hội trong tương lai.
 
Để kết thúc bài viết này, vẫn cần nhấn mạnh một điều rằng, trên thế giới, vẫn còn rất nhiều vùng, quốc gia và thậm chí có cả một lục địa xanh về mức sinh cao nhưng cũng đã có rất nhiều vùng, quốc gia đạt được mức sinh thay thế và có mức sinh thấp.
 
Tiếp tục giảm sinh và khuyến sinh vẫn là nhiệm vụ song hành của công tác dân số thế giới và điều quan trọng hơn cả là làm sao để có được một dân số có chất lượng, ổn định và góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của đất nước, thế giới.
 
---
 
Tài liệu tham khảo:
1.East West center, “Causes and effects of low fertility in Asia, 2010”
2. Sidney B.Westley, Minja Kim Choe, Rorert D. Retherford “Very low fertility in Asia is there a problem? Can it be solved?”
3. Hans-Perter Kohler, Francesco C.Billari, José Antonio Ortega “Low fertility in Europe: Cause, Implications and Policy options”, 2006
4. Joseph Chamie, UN, “Low fertility: Can Governments make a difference?”, 2004
5. Pregnant Pause.org, “Fertility rates (children per family) world statistics”
6. People’s Daily Online “China faces the challenges of low birth rate and ageing problem”, 2011
7. Jonathan Grant, Stijn Hoorens, Suja Sivadasan, Mirjam Van het Loo, Julie Davanzo, Lauren Hale, Shawna Gibson, William Butz “Low fertility and population ageing: Causes, Consequences and policy options”, 2004
8. Peter Mc Donald, “Low fertility and policy”, Australian Demographic and Social Research Insititute.
9. Workpermit.com, “Canada faces low birth rate challenge”, 2006
10. Peter Mc Donald “Very low fertility: Consequences, Cause and Policy Approades”, 2008
11. Population Reference Bureau, “2011 World Population data sheet”
12. Dudley Kirk, Great Britain “Demographic Transition Theory”, Population studies, 1996
13. UN Economic & Social Affairs Population Division, “World Population to 2300”, 2004
14. Alexandre Avdeev, Tatiana Eremenko, Patrick Festy, Joëlle Gaymu, Nathalie Lebouteillec, Sabine Springer, “Population and Demographic trends of European countries, 1980-2010”
15. Naohiro Ogawa, Robert D. Retherford, Rikiya Matsukura, “The Emergence of Very Low Fertility in Japan: Changing Mechanisms and Policy Responses”, 2006
16. Bhakta Gubhaju, “Fertility Decline in Asia: Opportunities and Challenges”, 2006
17. Gavin W. Jones,  “Recent  fertility trends, policy responses and fertility prospects in low fertility countries of East and Southeast Asia”, Population Division, UN Expert Paper No. 2011/5
18. UN Population division, “Replacement migration: Is it a solution to declining and ageing population?”
19. Roderic Beaujot, “Effect of immigration on the Canadian population: Replacement migration”, 2003
20. Phillip Longman, “Think again: Global Aging”, Foreign policy, 2010
21. Wendell Cox and Emma Chen, “Six adults and One child: The coming baby bust”, Conversable Economist, 2012
22. China.org.cn, “Low fertility rate a serious warning to China’s population problem”, 2011
23. Ik Ki Kim, “Policy responses to low fertility and population aging in Korea”, UN Secretariat, 2000
24. Minja Kim Choe,  Robert D. Retherford, Seung-Kwon Kim “Very low fertility in South Korea: Patterns and Prospects”, 2004
25. Natalie, “Why has Taiwan’s birthrate dropped so low?”, Time World, 2009
Ths. Lương Quang Đảng 
 
thanhloan
Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn

Qua ứng dụng S-Health, bất ngờ trước những căn bệnh người già gặp phải (kỳ 2): Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi nói riêng trong thời đại công nghệ số 4.0

Qua ứng dụng S-Health, bất ngờ trước những căn bệnh người già gặp phải (kỳ 2): Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi nói riêng trong thời đại công nghệ số 4.0

Dân số và phát triển - 3 năm trước

GiadinhNet - Thoái hóa đốt sống lưng tình trạng nặng có thể gây liệt nửa người, nhiều người bệnh rồi mà không biết rèn luyện thể lực, cũng không biết "Ứng dụng chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (S-Health)" để được nhắc nhở, hướng dẫn, hay cấp cứu kịp thời.

Dùng thuốc trị động kinh khi mang thai, tăng nguy cơ trẻ mắc bệnh tự kỷ

Dùng thuốc trị động kinh khi mang thai, tăng nguy cơ trẻ mắc bệnh tự kỷ

Dân số và phát triển - 4 năm trước

Phụ nữ dùng thuốc trị động kinh acid valproic trong thời kỳ mang thai có nguy cơ sinh con mắc bệnh tự kỷ cao hơn gấp đôi, một nghiên cứu mới đây cho thấy.

Lộ sự thật về chứng "lên đỉnh" dồn dập ở chị em

Lộ sự thật về chứng "lên đỉnh" dồn dập ở chị em

Dân số và phát triển - 4 năm trước

Các nhà khoa học Harvard cuối cùng đã tìm ra nguyên nhân và chữa khỏi cho một số phụ nữ khổ sở bấy lâu nay vì cả trăm cơn "lên đỉnh" dồn dập mỗi ngày.

Tạo phôi thai chuột không cần trứng và tinh trùng

Tạo phôi thai chuột không cần trứng và tinh trùng

Dân số và phát triển - 5 năm trước

Các tế bào gốc này có khả năng tạo ra cả ba loại tế bào được tìm thấy trong phôi sớm.

Bao cao su đầu tiên được thiết kế để tiêu diệt virus HIV

Bao cao su đầu tiên được thiết kế để tiêu diệt virus HIV

Nghiên cứu - Trao đổi - 10 năm trước

Kết quả kiểm tra đã cho thấy bao cao su VivaGel có hiệu quả trong việc khử 99,9% virus HIV, herpes và các virus u nhú ở người.

Cho tương lai phát triển bền vững

Cho tương lai phát triển bền vững

Nghiên cứu - Trao đổi - 10 năm trước

GiadinhNet - Báo cáo số liệu Thanh niên Thế giới năm 2013 của Văn phòng Tham chiếu Dân số Hoa Kỳ (PRB) cho thấy, trên thế giới hiện nay, thanh niên (nhóm dân số từ 10-24 tuổi) là hơn 1,8 tỷ người, chiếm 25% tổng dân số thế giới.

Thử nghiệm mới giúp tăng tỉ lệ thụ tinh trong ống nghiệm thành công

Thử nghiệm mới giúp tăng tỉ lệ thụ tinh trong ống nghiệm thành công

Nghiên cứu - Trao đổi - 10 năm trước

Theo các nhà nghiên cứu từ Đại học Oxford (Anh), các tế bào sản xuất năng lượng sản sinh ra nhiều DNA trong phôi thai là một tín hiệu có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi khiến người phụ nữ được thụ tinh trong ống nghiệm nhưng không thành công.

Thêm một nguyên nhân khó thụ thai bị nhiều người bỏ qua

Thêm một nguyên nhân khó thụ thai bị nhiều người bỏ qua

Nghiên cứu - Trao đổi - 10 năm trước

Phụ nữ có lượng cholesterol cao sẽ mất nhiều thời gian để thụ thai hơn những người có lượng cholesterol bình thường.

Thuốc ngừa thai không giết chết khoái cảm tình dục

Thuốc ngừa thai không giết chết khoái cảm tình dục

Nghiên cứu - Trao đổi - 10 năm trước

Nghiên cứu mới của các nhà khoa học Anh, Scotland và Cộng hòa Czech cho thấy thuốc ngừa thai không giết chết ham muốn tình dục nhưng chính việc ngưng sử dụng thuốc có thể ảnh hưởng lên khoái cảm của người phụ nữ.

Những bí mật liên quan đến hệ thống sinh sản của phụ nữ

Những bí mật liên quan đến hệ thống sinh sản của phụ nữ

Chất lượng cuộc sống - 10 năm trước

Màng trinh là phần vô ích, tử cung có khả năng siêu đàn hồi, trong âm đạo có tính axit, không thể xác định chính xác lúc thụ thai... là những điều có thể bạn chưa biết về bộ máy sinh sản nữ giới.

Top