Chính sách Dân số của Ấn Độ (1)
GiadinhNet - Ấn Độ là một trong những nước đầu tiên trên thế giới ủng hộ và hưởng ứng chương trình KHHGĐ.
Sau khi giành được độc lập (năm 1951), Chính phủ chính thức thực hiện chương trình kiểm soát dân số quốc gia từ năm 1952, nhấn mạnh việc giảm sinh, coi đó là yếu tố quan trọng nhất làm thay đổi quy mô dân số.
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1952-1957), Chính phủ đã trợ giúp và cung cấp các dịch vụ KHHGĐ ở các bệnh viện quốc gia và trung tâm y tế nông thôn.
Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1958-1963), Chính phủ tiến hành chương trình nghiên cứu về dân số và KHHGĐ đi đôi với các chương trình hành động.
Năm 1966, thành lập Cục KHHGĐ thuộc Bộ Y tế và tổ chức bộ máy làm công tác KHHGĐ từ TW đến địa phương rất chặt chẽ. Ủy ban KHHGĐ ở TW đưa ra các chỉ thị và xem xét tiến triển của Chương trình, Hội đồng KHHGĐ được thành lập ở các Bang, tiểu Bang có văn phòng KHHGĐ gồm các Ban: chính sách, giáo dục, thông tin, y tế giải phẫu và đánh giá.
Giai đọan 1969-1974 là giai đoạn đỉnh cao của chương trình, với tổng số kinh phí giành cho KHHGĐ của Ấn Độ có rất nhiều biến động. Số triệt sản tăng từ tăng từ 1,35 triệu năm 1974-1975 lên 2,65 triệu năm 1975-1976 và đột ngột tăng lên 8,11 triệu trong năm 1976-1977.
Nguyên nhân có sự tăng đột ngột là Chính phủ đã đưa ra kiến nghị luật cưỡng bức triệt sản. Cũng vì thế mà một trong những nguyên nhân Đảng Quốc đại I (đang cầm quyền) đã bị thất bại trong cuộc bầu cử tháng 3 năm 1977 và theo các nhà phân tích chính trị cho rằng chương trình KHHGĐ của Ấn Độ trong giai đoạn 1975-1977 đã đi quá tải. Cũng như một nhà nhân khẩu học nổi tiếng Prank W. Notestein đã dự đoán rằng trong việc chỉ đạo chương trình KHHGĐ "Sự ra tay cưỡng bức có khả năng kéo Chính phủ xuống nhiều hơn là kéo tỷ lệ sinh xuống".
Năm 1976, Chính phủ ban hành chính sách dân số, thực chất là chính sách kiểm soát sinh đẻ với mục tiêu giảm tỷ lệ sinh xuống 2,5% vào năm 1985. Những điểm đáng chú ý là: tăng tuổi kết hôn của nữ là 18, nam là 21; dành 8% ngân sách Chính phủ cho các Bang để thực hiện công tác KHHGĐ; nâng cao trình độ giáo dục của nhân dân, nhất là phụ nữ; các Bộ trong Chính phủ đều phối hợp tham gia công tác KHHGĐ; đánh giá hàng năm việc thực hiện chương trình KHHGĐ ở các ngành, các cấp; khuyến khích thưởng tiền với mức cao và dưới nhiều hình thức cho những người chấp nhận KHHGĐ; thu hút các tổ chức cá nhân tự nguyện quyên góp, thưởng tiền cho cán bộ y tế, giáo viên, các giới chức trong làng xã, các đoàn thể hợp tác đóng góp để thúc đẩy hoạt động của chương trình KHHGĐ.
Tháng 6 năm 1977, Chính phủ của ông ĐoSai đã công bố bãi bỏ việc sử dụng biện pháp cưỡng bức trong việc thực hiện chương trình khống chế dân số và đổi tên chương trình KHHGĐ thành chương trình phúc lợi gia đình. Chương trình đã khuyến khích các cặp vợ chồng tự chọn lấy biện pháp tránh thai thích hợp trên cơ sở tự nguyện, tự giác và sự chú ý quan tâm đến các biện pháp tránh thai khác như đặt vòng cũng ngang với triệt sản. Ngoài ra, chương trình phúc lợi gia đình còn đề cập tới các chương trình nước sạch, dịch vụ y tế, phối hợp với các chương trình phúc lợi khác như chương trình lương thực, thực phẩm, dinh dưỡng, may mặc, giáo dục, nhà ở, công ăn việc làm, phúc lợi phụ nữ, bảo vệ bà mẹ trẻ em. Chú ý các biện pháp khuyến khích và thưởng những cặp vợ chồng thực hiện KHHGĐ.
Trong kế hoạch 5 năm lần thú bảy (1986-1990), Ấn Độ xác định mục tiêu mỗi gia đình có 2 con và đạt mức sinh thay thế vào năm 2000. Chương trình phúc lợi gia đình đạt mục tiêu đưa con số triệt sản lên 21 triệu, đặt vòng 21,3 triệu và số người sử dụng các biện pháp khác lên 62,5 triệu vào năm 1990. Chính phủ cũng kêu gọi tăng cường các nguồn tài chính cho việc khuyến khích những người chấp nhận KHHGĐ và cho chương trình. Việc phối hợp KHHGĐ với các dịch vụ y tế, sức khỏe và bảo vệ bà mẹ trẻ em sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng.
Chương trình phúc lợi gia đình đã đề ra một loạt biện pháp: tăng tuổi kết hôn trung bình của phụ nữ trên 20 tuổi; tăng cường địa vị xã hội cho phụ nữ; nâng cao hơn nữa tỷ lệ biết chữ trong toàn quốc; đảm bảo sống hơn nữa cho những người già cả; tăng cường bảo vệ và phát triển sức khỏe cho trẻ em; vận động các tổ chức tự nguyện đóng góp cho chương trình KHHGĐ; vận động các nhà lãnh đạo tuyên truyền và ủng hộ cho chương trình KHHGĐ; đào tạo cán bộ chuyên môn nghiệp vụ cho chương trình; hoàn thiện và nâng cao công tác quản lý chương trình DS-KHHGĐ.
Qua ứng dụng S-Health, bất ngờ trước những căn bệnh người già gặp phải (kỳ 2): Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi nói riêng trong thời đại công nghệ số 4.0
Dân số và phát triển - 3 năm trướcGiadinhNet - Thoái hóa đốt sống lưng tình trạng nặng có thể gây liệt nửa người, nhiều người bệnh rồi mà không biết rèn luyện thể lực, cũng không biết "Ứng dụng chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (S-Health)" để được nhắc nhở, hướng dẫn, hay cấp cứu kịp thời.
Dùng thuốc trị động kinh khi mang thai, tăng nguy cơ trẻ mắc bệnh tự kỷ
Dân số và phát triển - 4 năm trướcPhụ nữ dùng thuốc trị động kinh acid valproic trong thời kỳ mang thai có nguy cơ sinh con mắc bệnh tự kỷ cao hơn gấp đôi, một nghiên cứu mới đây cho thấy.
Lộ sự thật về chứng "lên đỉnh" dồn dập ở chị em
Dân số và phát triển - 4 năm trướcCác nhà khoa học Harvard cuối cùng đã tìm ra nguyên nhân và chữa khỏi cho một số phụ nữ khổ sở bấy lâu nay vì cả trăm cơn "lên đỉnh" dồn dập mỗi ngày.
Tạo phôi thai chuột không cần trứng và tinh trùng
Dân số và phát triển - 5 năm trướcCác tế bào gốc này có khả năng tạo ra cả ba loại tế bào được tìm thấy trong phôi sớm.
Bao cao su đầu tiên được thiết kế để tiêu diệt virus HIV
Nghiên cứu - Trao đổi - 10 năm trướcKết quả kiểm tra đã cho thấy bao cao su VivaGel có hiệu quả trong việc khử 99,9% virus HIV, herpes và các virus u nhú ở người.
Cho tương lai phát triển bền vững
Nghiên cứu - Trao đổi - 10 năm trướcGiadinhNet - Báo cáo số liệu Thanh niên Thế giới năm 2013 của Văn phòng Tham chiếu Dân số Hoa Kỳ (PRB) cho thấy, trên thế giới hiện nay, thanh niên (nhóm dân số từ 10-24 tuổi) là hơn 1,8 tỷ người, chiếm 25% tổng dân số thế giới.
Thử nghiệm mới giúp tăng tỉ lệ thụ tinh trong ống nghiệm thành công
Nghiên cứu - Trao đổi - 10 năm trướcTheo các nhà nghiên cứu từ Đại học Oxford (Anh), các tế bào sản xuất năng lượng sản sinh ra nhiều DNA trong phôi thai là một tín hiệu có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi khiến người phụ nữ được thụ tinh trong ống nghiệm nhưng không thành công.
Thêm một nguyên nhân khó thụ thai bị nhiều người bỏ qua
Nghiên cứu - Trao đổi - 10 năm trướcPhụ nữ có lượng cholesterol cao sẽ mất nhiều thời gian để thụ thai hơn những người có lượng cholesterol bình thường.
Thuốc ngừa thai không giết chết khoái cảm tình dục
Nghiên cứu - Trao đổi - 10 năm trướcNghiên cứu mới của các nhà khoa học Anh, Scotland và Cộng hòa Czech cho thấy thuốc ngừa thai không giết chết ham muốn tình dục nhưng chính việc ngưng sử dụng thuốc có thể ảnh hưởng lên khoái cảm của người phụ nữ.
Những bí mật liên quan đến hệ thống sinh sản của phụ nữ
Chất lượng cuộc sống - 10 năm trướcMàng trinh là phần vô ích, tử cung có khả năng siêu đàn hồi, trong âm đạo có tính axit, không thể xác định chính xác lúc thụ thai... là những điều có thể bạn chưa biết về bộ máy sinh sản nữ giới.
Những phụ nữ không nên uống thuốc tránh thai
KHHGĐThuốc tránh thai có estrogen và progesteron làm cho quá trình thụ thai không diễn ra như sinh lý bình thường: Trứng không rụng, không thụ tinh hoặc đã thụ tinh nhưng không làm tổ được đúng vào giai đoạn thích hợp nên không có thai.