Phụ nữ chiếm một nửa dân số thế giới nhưng tỷ lệ trung bình phụ nữ tham gia trong cơ quan lập pháp của các nước chỉ chiếm 16%, đại sứ tại Liên hợp quốc là 9% và 7% trong nội các chính phủ các nước.
Trong số hơn 190 quốc gia trên thế giới thì chỉ có 7 quốc gia có người đứng đầu chính phủ (Tổng thống hoặc Thủ tướng) là phụ nữ (theo Women, Politics and Power – A global perspective – Pamela Paxton & Melanie M. Hughes, 2007).
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy định các quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị như quyền được bầu cử, ứng cử, tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước nhưng vẫn còn khoảng cách xa giữa các quyền được quy định trong luật với thực tiễn, khoảng cách chênh lệch giữa nam giới và nữ giới trong lĩnh vực này.
Nâng cao vị thế của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội nói chung cũng như trong thực hiện bình đẳng giới. Phụ nữ tham gia vào các cơ quan lập pháp, hành pháp hay tư pháp để xây dựng, thực hiện cũng như giám sát việc thực hiện các quyết sách liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ.
Ở Việt Nam ta, ngay từ ngày đầu mới lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trong phần mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hiếp pháp 1946, đã ghi nhận “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều 1). “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9).
Kể từ mùa thu lịch sử đó, cùng với dòng chảy của lịch sử dân tộc, Việt Nam đã có 4 bản Hiếp pháp (1946, 1956, 1980 và 1992). Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ” (Điều 63).
Trong thời gian qua, hàng loạt các văn bản pháp luật của Nhà nước đã được ban hành nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội và thực hiện bình đẳng giới như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và Gia đình, Pháp lệnh Dân số... và không thể không nhắc đến là Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới.
Luật Bình đẳng giới quy định nguyên tắc bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện bình đẳng giới.
Chương II, Luật Bình đẳng giới quy định bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình như: Lĩnh vực kinh tế (Điều 12), lĩnh vực lao động (Điều 13), lĩnh vực giáo dục và đào tạo (Điều 14), lĩnh vực y tế (Điều 17), gia đình (Điều 18)…
Điều 11 quy định bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị: Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội, xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức; Bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp;
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp cũng quy định phụ nữ có quyền bầu cử, ứng cử cũng như các cơ chế để đảm bảo phụ nữ được thực hiện những quyền đó.
Kết quả bầu cử đại biểu quốc hội khoá XI, phụ nữ chiếm 27.31% trong tổng số đại biểu quốc hội khoá XI; Khoá XII: 25.76%. Đây là tỷ lệ cao qua các kỳ bầu cử Quốc hội và đã đưa Việt Nam thuộc hàng nước có tỷ lệ nữ đại biểu trong cơ quan lập pháp cao nhất châu Á và cũng như trên thế giới (trên 25%).
Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nước ta cao hơn hẳn so với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và nhiều nước trong khu vực (bản đồ thế giới về tỷ lệ nữ đại biểu trong cơ quan lập pháp của UNDP, 2006 đã cho thấy rõ vị trí của Việt Nam trên thế giới về vấn đề này).
Theo Inter-Parliamentary Union thì Việt Nam đứng thứ 37 trong tổng số 188 nước trên thế giới về tỷ lệ phụ nữ trong cơ quan lập pháp (số liệu tính đến ngày 31/1/2011 trên cơ sở báo cáo của cơ quan lập pháp các nước).
Số liệu của trang tin Nhóm Nữ nghị sỹ Việt Nam (thuộc Uỷ ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội) cho thấy, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội ở nước ta liên tục tăng lên trong thời gian qua và duy trì ở mức cao.
Từ năm 1999 đến nay, Việt Nam luôn có nữ Phó chủ tịch nước. Tỷ lệ phụ nữ là bộ trưởng, thứ trưởng, vụ trưởng cũng tăng lên. Tại các cấp địa phương, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Nhân dân cũng được tăng lên và nhiều nơi có nữ chủ tịch.
Chính phủ cũng có các cơ quan chuyên trách chăm lo, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của phụ nữ như Vụ Bình đẳng giới (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội), Vụ Gia đình (Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch), Vụ Sức khoẻ Bà mẹ Trẻ em (Bộ Y tế),… Đặc biệt là Uỷ ban Quốc gia Vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam được thành lập từ năm 1985 với tổ chức từ trung ương đến địa phương có chức năng, nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ giải quyết các vấn đề liên ngành liên quan đến sự tiến bộ của phụ nữ.
Không chỉ tham gia vào các cơ quan nhà nước: Lập pháp, hành pháp, tư pháp, phụ nữ Việt Nam còn tham gia vào các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp…
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là một tổ chức chính trị rộng lớn dành cho phụ nữ hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển của phụ nữ, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ. Tổ chức này hoạt động rộng khắp trên cả nước từ trung ương đến địa phương và tận cấp cơ sở với các chi hội phụ nữ.
Không chỉ tăng lên về số lượng mà chất lượng phụ nữ tham gia trong lĩnh vực chính trị cũng được tăng lên về trình độ và năng lực quản lý. Rất nhiều phụ nữ đã trở thành các nhà lãnh đạo, quản lý, nắm giữ những vị trí chủ chốt tại các cơ quan mà mình tham gia. Với những tính cách ưu việt của người phụ nữ Việt Nam, rất nhiều người trong số họ đã trở thành những nhà lãnh đạo xuất sắc.
Mặc dù, Việt Nam xếp thứ hạng cao trên thế giới về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nhưng vẫn còn khoảng cách khá lớn giữa tỷ lệ nam và nữ (73% và 27%) và đặc biệt là tỷ lệ phụ nữ nắm giữ các vị trí lãnh đạo. Vẫn còn những rào cản từ phía gia đình, xã hội đối với phụ nữ khi tham gia công tác xã hội, chính trị.
Điều đó đỏi hỏi Việt Nam cần tăng cường giáo dục, tuyên truyền hơn nữa nhằm nâng cao trình độ nhận thức của người dân trong việc nhìn nhận vai trò, vị trí của phụ nữ; sự cam kết và đầu tư mạnh mẽ của Chính phủ, sự tham gia của các cấp, ngành, đoàn thể và mỗi cá nhân trong việc nâng cao vị thế, vai trò người phụ nữ; thực hiện bình đẳng giới, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị; thực hiện thành công Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020, đạt được các mục tiêu thiên niên kỷ về bình đẳng giới và nâng cao vị thế người phụ nữ.
Lương Quang Đảng