Những tờ giấy sắc phong uy nghi một thời được vua, chúa ban ra từ nhiều thế kỷ trước, phần lớn đều có "xuất thân" từ làng Nghè. Ấy là thứ giấy quý với hai mặt đạo sắc, một mặt vẽ rồng có hình con triện, một mặt vẽ tứ linh để yểm phía sau. Những nét vẽ trên giấy sắc khi thì mềm mại uốn lượn như thân rồng, khi bay bổng theo vân mây. Và chỉ có dòng họ Lại ở làng Nghè được làm, cung cấp giấy sắc cho triều đình mà thôi.
"Xuất thân" của sắc quý vua ban
|
Tấm bằng tiểu học của cụ Lại Thế Bàn xưa được dòng họ kỳ công gắn trên giấy sắc khảm bạc. |
Tùy loại sắc mà có những quy định khác nhau về kích cỡ, màu sắc, họa tiết. Sắc phong cho bách thần có ba hạng là Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần và Hạ đẳng thần. Những sắc phong thần được rước về đình, đặt lên hương án. Sắc phong cho bách quan có ba hạng là Nhất cao sắc, Nhị cao sắc, Tam cao sắc (hoặc Nhất đẳng quan, Nhị đẳng quan, Tam đẳng quan). Sắc phong hạng nhất cho bách quan xung quanh vẽ 8 con rồng nhỏ, mặt trước vẽ một con rồng lớn, mặt sau vẽ tứ linh long, ly, quy, phượng. Sắc phong hạng nhì cho bách quan xung quanh vẽ mây hoặc họa tiết hồi văn, mặt trước đôi rồng, mặt sau vẽ nhị linh gồm long, ly. |
Dòng họ Lại ở làng Nghè (Nghĩa Đô, Hà Nội ngày nay) là dòng họ duy nhất có bí quyết làm nên loại giấy sắc quý có độ bền hàng trăm năm.
Đó là loại giấy sắc đanh mà lại mềm mại như lụa, không hút ẩm, không giòn và có độ dai lớn. Vào những năm 1623 - 1652, chúa Trịnh Tráng quy định: Chỉ có dòng họ Lại ở làng Nghè mới được quyền sản xuất loại giấy vua dùng để phong công, phong thần. Có được ân sủng ấy là bởi dòng họ Lại có công với nhà chúa, lại có người làm rể chúa Trịnh Tráng.
Theo chị Lại Thu Hà, người kế tục nghiệp làm giấy sắc phong dòng họ Lại ngày nay: Xưa kia nghề làm giấy sắc của dòng họ là do chúa Trịnh Tráng đặc ân giao cho cụ Lại Thế Giáp, nguyên là con rể Trịnh Tráng, được đặc quyền làm. Triều đình chúa Trịnh đã phong cho cụ Lại Thế Vinh tước Đô Thịnh Hầu, trực tiếp đảm nhiệm việc sản xuất, cung ứng số lượng giấy sắc theo yêu cầu của triều đình.
Đã một thời, người ta đều biết đến tên tuổi của những nghệ nhân tài hoa làm giấy sắc như cụ Lại Thế Vị, cụ Sửu Tơ, cụ Xã Đôi, cụ Chương Sứ, cụ Lại Thị Phương, cụ Lại Phú Bàn. Vài năm trước, cụ Lại Thế Bàn là người duy nhất trong dòng họ còn nắm được bí quyết làm giấy sắc đã về với tổ tiên. Sau khi cụ mất, người con gái út của cụ là chị Lại Thu Hà, được truyền bí quyết làm giấy sắc, đã kế tục sự nghiệp của dòng họ.
Giấy sắc được tạo nên bởi bàn tay tài hoa của những nghệ nhân họ Lại với hai mặt đạo sắc, một mặt vẽ rồng có hình con triện, một mặt vẽ tứ linh để yểm phía sau. Những nét vẽ vừa mềm mại uốn lượn như rồng bay, vừa có nét bay bổng theo những đám mây, hoạ tiết khi thì hoá chim, lúc lại hoá rồng. Ấy là thứ giấy được dùng để phong công, phong thần, là lộc vua ban, là lộc nước nên giấy vốn đã đẹp lại càng quý.
Trên mỗi nét vẽ hoa văn lại được phủ lên thứ vàng mười (quỳ vàng - là loại vàng ta được dát thật mỏng sau đó thếp lên giấy sắc) nên trông giấy sắc càng thêm phần long lanh màu sắc của hoàng tộc. Chị Lại Thu Hà cho biết, theo lời kể của các cụ trong họ thì năm mà họ Lại làm nhiều giấy sắc nhất là năm 1925, khi vua Khải Định tổ chức "Tứ tuần đại khánh" mừng thọ 40 tuổi, nhà vua cần tới hàng vạn tờ sắc để ban khen quần thần. Họ Lại phải tập trung cả họ mới kịp làm đủ giấy sắc cho triều đình. Giá giấy sắc hồi đó cũng rất cao bởi công đoạn làm giấy sắc rất khó, nguyên vật liệu để trang trí lại đều bằng vàng, bạc nguyên chất. Vì thế, mỗi tờ giấy sắc có giá là một đồng bạc Đông Dương, tương đương một lượng vàng ngày nay.
Kỳ công sắc vua…
|
Để phục chế được sắc phong thời nhà Lê, truyền nhân Lại Thu Hà phải mất hơn 1 tháng mới xong. |
Giấy sắc dành riêng cho vua dùng để viết các sắc phong thần, phong công trên nền giấy, nên bao giờ cũng nổi lên mờ mờ hình rồng phun mây. Dân gian xưa vẫn quen gọi là giấy Nghè, để chỉ thứ giấy làm ở làng Nghè (tên gọi xưa của làng Nghĩa Đô). Để hoàn thành một giấy sắc phải qua rất nhiều công đoạn. Chỉ vào tờ sắc phong đã mục nát từ thời nhà Lê mà người ta mang đến phục hồi, chị Hà bảo: "Tờ sắc nguyên bản dài chừng 1,2 mét, rộng 55cm đã mục nát gần hết, để phục hồi giấy sắc mới phải mất tới hơn một tháng".
Xưa kia, những nghệ nhân họ Lại phải lên tận vùng đất Lâm Thao, Phú Thọ để tìm cây dó về làm nguyên liệu. Người ta đem vỏ cây dó ngâm trong nước lạnh, rồi đến nước vôi, sau đó đưa vào vạc nấu chín bằng hơi rồi tách bóc thành phần ruột, phần vỏ. Kế đến lấy phần ruột trắng ngâm kỹ trong bể rồi đem rửa, chọn kỹ đem ngâm xong mới giã, đãi, kết hợp với phèn chua và gỗ mò đánh tan đều trong một cái bể lớn. Hết các công đoạn xử lý cây dó thì mới đến công đoạn seo.
Người ta hòa bột giấy trong bể lọc, thợ seo vục nước vào khuôn, lắc cho nước róc hết, lột tờ giấy ướt trên seo đặt chồng lên nhau thành xếp. Khi seo giấy sắc thì phải ba người seo phối hợp mới thành một tờ giấy. Lúc bóc uốn phải bóc liền ba tờ hoặc năm tờ tùy theo độ dầy mỏng của từng loại giấy, nhằm bảo đảm độ dai cho giấy.
Để giấy có độ dai, bền cao thì ở công đoạn giã bìa làm giấy sắc, người ta phải giã bìa bằng tay chứ không giã bằng chày dận chân. Chày giã bằng tay cao hơn đầu người, mặt chày phải phẳng không được lồi lõm để lực xuống được phân đều, các sợi tơ không bị gãy vụn. Như vậy độ dai của tờ giấy sắc càng bền lâu. Người ta còn quét lên bề mặt giấy mộc một loại keo nấu từ da trâu để tăng độ dai của giấy và làm cho giấy không hút ẩm, có tác dụng chống mối mọt.
Giấy sắc dùng để sắc phong cho quan hàng nhất phẩm (phẩm trật hàng đầu) thì phải có 5 thợ cùng làm một lúc mới seo nổi một tờ. Giấy để sắc phong cho hàng phẩm trật thấp hơn (từ nhị phẩm đến cửu phẩm) khổ giấy hẹp hơn thì cũng phải cần tới 3 người thợ mới làm nổi một tờ. Sau một loạt các công đoạn kế tiếp như ép uốn, nghè giấy, sấy giấy... mới đến những công đoạn quan trọng nhất, đòi hỏi bàn tay nghệ nhân tài hoa mới làm nổi, đó là công đoạn sắc, vẽ hoạ tiết theo phẩm trật. Ấy là sau khi quét nước hoa hòe cho giấy sắc có màu vàng, là đến giai đoạn sắc hóa.
Đó là khâu tinh xảo, cầu kỳ nhất và là khâu cuối cùng hoàn thành tờ sắc, chỉ những nghệ nhân tay nghề cao mới vẽ nổi hoạ tiết rồng trên giấy sắc trong công đoạn này. Các hình long, ly, quy, phượng lên tờ giấy sẽ được vẽ bằng tay theo từng phẩm trật mà triều đình ban tặng. Chị Lại Thu Hà cho hay, các cụ trong dòng họ xưa dùng bút lông và nguyên liệu mực vẽ là dung dịch có vàng và bạc để vẽ. Dụng cụ đánh vàng bạc là chày và những cái bát lớn. Bao giờ bí quyết kỹ thuật "đánh vàng, đánh bạc" cũng được các nghệ nhân họ Lại giữ bí mật và chỉ truyền cho người kế nghiệp.
Tiếc nuối nét văn hóa cổ xưa…
Với đặc ân là dòng họ duy nhất được làm giấy sắc, mỗi năm họ Lại cung cấp cho triều đình khoảng 2.000 tờ giấy sắc. Khoảng 40.000 sắc phong đã được các triều vua Việt Nam ban tại 90 huyện ở đồng bằng Bắc Bộ.
Ngày nay, nhiều sắc phong đã bị mục nát cần phục chế mà chỉ có dòng họ Lại ở Nghĩa Đô có bí quyết làm được loại giấy quý này. Nhưng cả dòng họ nay cũng chỉ có chị Lại Thu Hà được người cha là nghệ nhân cuối cùng của dòng họ - cụ Lại Thế Bàn - truyền cho bí quyết giữ nghề. Dù chẳng còn tấp nập người ra kẻ vào, sắc phong cũng chỉ còn là nét văn hoá cổ xưa của triều đại phong kiến nhưng chị Hà vẫn dành tâm huyết để giữ nghề truyền thống tổ tiên để lại.
"Có rất ít khách đến đặt làm sắc phong, chủ yếu là họ đến để khôi phục lại các sắc phong đã cũ, mục nát. Để phục chế được một tờ giấy sắc, mất rất nhiều công sức, nghề không còn đủ để đảm bảo cuộc sống nhưng tôi vẫn duy trì để giữ bí quyết gia truyền", truyền nhân cuối cùng của dòng họ làm sắc phong - chị Lại Thu Hà chia sẻ.
Cả hai loại sắc phong là sắc phong thần và sắc phong chức tước cho các quý tộc, quan chức có công trạng với vương triều đều có các giá trị lịch sử, văn hoá. Nghề làm giấy sắc phong của dòng họ Lại ở làng Nghè xưa không chỉ là nghề truyền thống của tổ tiên họ Lại, mà nó đã vượt ra khỏi giá trị gia đình, dòng họ, trở thành nét văn hoá xưa của dân tộc Việt Nam một thuở, là một sản phẩm mang đậm dấu ấn văn hóa Việt Nam. Vì thế, việc hỗ trợ khôi phục lại nghề làm giấy sắc để bảo tồn một trong những di sản quan trọng cấu thành nên nền văn hóa Việt Nam, là điều cần thiết.
Lã Xưa