Chiến lược dân số của Việt Nam trong quá trình phát triển
Giữa dân số và phát triển có mối quan hệ biện chứng, ràng buộc lẫn nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau.
Muốn tăng trưởng kinh tế thì yếu tố đầu tiên phải là con người - nguồn nhân lực, mà nguồn nhân lực lại gắn liền với tình hình biến đổi dân số. Mặt khác, mục đích cuối cùng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội không ngoài việc nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi người dân. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được với một quy mô, tốc độ tăng trưởng, sự phân bố dân cư và nguồn nhân lực phù hợp với nền kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Năm 1957 Đại hội đồng Liên hợp quốc nhất trí thông qua nghị quyết về các vấn đề dân số, trong đó kêu gọi các nước thành viên tính đến mối quan hệ tương hỗ giữa phát triển kinh tế và biến đổi dân số và cổ vũ các chính phủ đi theo con đường "Kế hoạch hoá gia đình" để giảm bớt sự gia tăng dân số quá nhanh. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển (chiếm tới 67% dân số thế giới vào năm 1950), chịu ảnh hưởng trầm trọng của vấn đề bùng nổ dân số đã ngày càng quan tâm đến chương trình kiểm soát sinh. Theo dự báo của Liên hợp quốc thì ngay cả khi các các quốc gia đã có những nỗ lực và thành công nhất định trong công tác dân số thì quy mô dân số thế giới vẫn có khả năng đạt tới con số 8 tỷ người vào năm 2025 với số tăng trung bình hàng năm khoảng 80-90 triệu người. Ngày nay, hơn một nửa số các cặp vợ chồng trên thế giới đã tích cực sử dụng các biện pháp tránh thai và họ đã có ít con hơn so với cha mẹ mình vài chục năm trước đây. Mặc dù vậy, số trẻ sinh ra hàng năm vẫn ở mức cao bởi số người bước vào độ tuổi sinh đẻ vẫn lớn hơn nhiều so với số người bước ra khỏi độ tuổi sinh đẻ. Các nhà khoa học, lãnh đạo và các nhà quản lý của nhiều quốc gia trên thế giới nhận thấy rằng, gia tăng dân số nhanh có tác động hạn chế đến quá trình phát triển của từng quốc gia và cả thế giới. Gia tăng dân số nhanh cũng góp phần làm căng thẳng thêm các vấn đề toàn cầu như: cạn kiệt nguồn tài nguyên, suy thoái môi trường, hiện tượng nóng lên của khí hậu toàn cầu, quá tải dân cư ở các khu đô thị lớn... Chính các hiện tượng này cùng với các nhu cầu sống cơ bản của người dân không được đáp ứng đầy đủ như lương thực, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, nhà ở..., sự phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng trong hưởng thụ dẫn đến những mâu thuẫn và xung đột... là những yếu tố cản trở các nỗ lực ổn định dân số ở mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam từ đầu thập niên 60 đến nay, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến việc hoạch định và thực thi chính sách dân số quốc gia, nhằm làm giảm mức sinh, mức chết, nâng cao chất lượng dân số và phân bố dân cư hợp lý. Chính sách dân số hướng tới giảm mức sinh ở Việt Nam ra đời cách đây hơn 40 năm được đánh dấu bằng Quyết định 216/CP ngày 26-12-1961 của Hội đồng Chính phủ. Tại thời điểm này dân số nước ta mới khoảng 30-31 triệu người. Điều đó chứng tỏ Nhà nước ta đã sớm ý thức tầm quan trọng của việc kiểm soát mức sinh và hơn nữa, có tầm nhìn chiến lược đối với công tác này khi xác định mục tiêu của sinh đẻ có hướng dẫn không chỉ đơn thuần là để hạn chế quy mô dân số mà mục đích quan trọng của nó là: "Vì sức khoẻ của người mẹ, vì hạnh phúc và sự hoà thuận của gia đình, để cho việc nuôi dạy con cái được tốt...".
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (năm 1993) nhận định: "Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hoá và thể lực của nòi giống. Nếu xu thế này cứ tiếp tục diễn ra thì trong tương lai không xa nước ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí những nguy cơ về nhiều mặt". Nghị quyết đã nêu lên quan điểm về mối quan hệ giữa dân số và phát triển, vị trí của công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình: "Công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của từng người, từng gia đình và toàn xã hội.".
Chiến lược dân số - kế hoạch hoá gia đình đến năm 2000 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 06/3/1993 đã thể chế hoá một giai đoạn thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) tạo nên bước ngoặt có tính quyết định thành công của chương trình dân số Việt Nam.
Mức sinh giảm nhanh hơn so với kế hoạch đề ra đã tạo điều kiện thuận lợi để đạt được mục tiêu hạ tỷ lệ phát triển dân số từ 2,1% (năm 1992) xuống còn trên 1,3% (năm 2002), quy mô dân số 79,7 triệu người (năm 2002), số con trung bình của 1 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 2,28 con. Đây là một tiến bộ vượt bậc so với mục tiêu của Chiến lược dân số - kế hoạch hoá gia đình đến năm 2000. Như vậy mục tiêu đạt mức sinh thay thế vào năm 2025 chúng ta sẽ đạt sớm hơn 10 năm. Quy mô dân số theo mục tiêu Nghị quyết Trung ương 4 là 85,2 triệu người thực tế nước ta chỉ ở mức 79,5 triệu người (giảm 5,5 triệu người). Theo tính toán của Tổng cục Thống kê dựa trên kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở (1999) đáng lẽ dân số nước ta là 80 triệu người vào năm 1999 thì đến cuối 2002 chúng ta mới đạt con số này lùi lại được 3 năm. Kết quả này đã góp phần giảm bớt chi ngân sách nhà nước cho dịch vụ phúc lợi xã hội như giáo dục, y tế, trực tiếp góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho những gia đình thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình.
Suy cho cùng tăng trưởng kinh tế nhằm đạt mục tiêu phát triển, chỉ tiêu tích hợp này được thể hiện qua tỷ lệ tăng thu nhập bình quân đầu người (GDP). Tỷ lệ tăng GDP đầu người phụ thuộc trực tiếp vào tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc nội và tỷ lệ tăng dân số, trong đó tỷ lệ tăng sản phẩm quốc nội là tử số và tỷ lệ tăng dân số là mẫu số. Để tăng được GDP bình quân đầu người thì tổng sản phẩm quốc nội phải tăng nhanh hơn tỷ lệ tăng dân số. Việc hạ thấp tỷ lệ tăng dân số vừa góp phần làm tăng GDP thông qua việc tăng số lượng và chất lượng lao động và tăng tiết kiệm chi tiêu dùng để đầu tư phát triển kinh tế, nhưng được thấy rõ hơn là làm tăng GDP bình quân đầu người, đặc biệt khi xem xét kết quả của việc thực hiện chương trình DS-KHHGĐ làm tăng GDP bình quân đầu người được thấy đậm nét trong một giai đoạn dài.
Trong giai đoạn 1991-2000, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng liên tục qua các năm với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 7,56%. Đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước đã gấp 2,07 lần năm 1990, đạt và vượt mức mục tiêu tổng quát đề ra cho Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000 là tổng sản phẩm trong nước gấp 2 lần. Đồng thời, tỷ lệ tăng dân số đã giảm rất nhanh và đạt mức tăng 1,7% mỗi năm. Do đó, tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người cao nhất trong 3 thập kỷ qua là 5,86% bình quân mỗi năm.
Nguồn: - Việt Nam dân số và phát triển. NXB Thống kê, Hà Nội, 1996
- Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam 10 năm 1991-2000. Tổng cục Thống kê, Hà Nội, 2-2001
Như vậy chúng ta thấy trong thập kỷ 90, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Việt Nam vào khoảng 7,56% nhưng nếu tỷ lệ tăng dân số không giảm xuống mức 1,7% mà vẫn tăng ở mức 2,4-2,5% như những năm đầu thập kỷ 80 thì tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người sẽ giảm 1%. Vì vậy việc thực hiện thành công mục tiêu của chương trình DS-KHHGĐ trong những năm thập kỷ 90 đã góp phần làm tăng GDP bình quân đầu người mỗi năm. Trong 2 năm đầu của thế kỷ 21 mực dù tốc độ tăng trưởng kinh tế không đạt so với chỉ tiêu đề ra nhưng nhờ thực hiện tốt chương trình DS-KHHGĐ nên tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người vẫn đạt ở mức cao.
Một số bài thuốc quý trị chứng hay cáu giận
Dân số và phát triển - 9 giờ trướcSKĐS - Cáu giận là cảm xúc mà hầu như ai cũng có nhưng có một số người đặc biệt hay cáu giận hơn so với người khác. Thực ra, hay cáu giận cũng là biểu hiện bệnh lý và có thể điều trị được.
Bí quyết giúp phụ nữ tuổi 50 giảm cân và các triệu chứng mãn kinh
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcMãn kinh là một giai đoạn tự nhiên trong cuộc đời, thường ảnh hưởng đến phụ nữ trong độ tuổi từ 45 – 55, có thể gây tăng cân và các triệu chứng khó chịu khác.
Người bị loãng xương có nên tập thể dục?
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcLoãng xương được đặc trưng bởi sự mất canxi trong xương, khiến xương dễ bị gãy. Tập thể dục thường xuyên làm giảm tỷ lệ mất xương và bảo tồn mô xương, giảm nguy cơ gãy xương và té ngã…
Một số phương pháp tập luyện hỗ trợ điều trị rối loạn xuất tinh
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcChứng rối loạn xuất tinh xuất hiện ngày càng nhiều ở nam giới với các nguyên nhân khác nhau. Một số phương pháp tập luyện có thể hỗ trợ điều trị chứng bệnh này hiệu quả.
Bố chồng lên kế hoạch tỉ mỉ để dụ dỗ con trai có quan hệ bất chính với con gái đại gia
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcTôi được một phen sáng con mắt khi biết âm mưu của bố chồng mình.
Câu hỏi thường gặp cho người bị rong kinh
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcRong kinh là tình trạng chảy máu kinh nhiều hơn bình thường về lượng hoặc thời gian. Để chẩn đoán chính xác do nguyên nhân nào cần đi khám để được điều trị phù hợp.
Căng thẳng có ảnh hưởng đến khả năng rụng trứng ở chị em?
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcMột trong những nguyên nhân làm chu kỳ kinh nguyệt thay đổi, không đều, kéo dài, chậm rụng trứng là do căng thẳng (stress). Vậy chúng ta hãy xem điều này xảy ra như thế nào?
3 giai đoạn của bệnh nhân sa sút trí tuệ người thân cần biết để chăm sóc
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcSa sút trí tuệ là khi bạn dần mất đi các chức năng thần kinh do các bệnh ảnh hưởng tới não bộ. Chứng bệnh này sẽ phát triển theo 3 giai đoạn tệ dần.
Các thuốc điều trị nhiễm độc thai nghén
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcNhiễm độc thai nghén có thể xuất hiện vào 3 tháng đầu hoặc 3 tháng cuối của thai kỳ. Nếu không được điều trị, nhiễm độc thai nghén có thể dẫn tới sảy thai, sinh non, sản giật. Những đứa trẻ được sinh ra từ người mẹ bị nhiễm độc thai nghén thường nhẹ cân, chậm phát triển so với tuổi thai và suy thai.
Thuốc điều trị bệnh lậu
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcBệnh lậu có thể điều trị được bằng thuốc kháng sinh. Tuy nhiên hiện nay, tình trạng lậu kháng thuốc ngày càng tăng. Do đó cần điều trị theo kháng sinh đồ. Sau khi hết đợt điều trị mà vẫn còn triệu chứng, bệnh nên đến gặp bác sĩ.
Bí quyết giúp phụ nữ tuổi 50 giảm cân và các triệu chứng mãn kinh
Dân số và phát triểnMãn kinh là một giai đoạn tự nhiên trong cuộc đời, thường ảnh hưởng đến phụ nữ trong độ tuổi từ 45 – 55, có thể gây tăng cân và các triệu chứng khó chịu khác.