Hôn nhân cận huyết thống: Hệ luỵ từ việc “nước tốt không chảy vào ruộng khác”
GiadinhNet - Nếu như tại Hoà Bình, quan niệm kết hôn "cứ ưng cái bụng" là nên vợ nên chồng, bất chấp con chú con bác; thì ở Đắk Lăk, người Lô Lô quan niệm "nước tốt không để chảy vào ruộng người khác". Họ cho phép hôn nhân cận huyết thống mà không có sự hạn chế nào.
Bức tranh buồn
Ở huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình, nơi có 90% dân số là người Mường, địa phương vốn là "điểm nóng" của tình trạng hôn nhân cận huyết thống. Có tình trạng này, theo một cán bộ dân số của huyện Kim Bôi, là do người dân cứ thấy "ưng cái bụng" là nên vợ, nên chồng. Điều này đã trở thành tập tục lâu đời của bà con nơi đây.
Nhiều người "thành vợ, thành chồng" mà không qua cán bộ tư pháp hoặc chính quyền xã để đăng ký kết hôn. Vì vậy, đã xảy ra nhiều hệ lụy cho chất lượng sinh sản như không quan tâm việc khám sức khoẻ tiền hôn nhân, dẫn đến vẫn có những đứa trẻ sinh ra bị hội chứng Down, dị tật bẩm sinh, tăng động, tự kỷ… Trẻ em sinh ra từ các cặp vợ chồng hôn nhân cận huyết thống dễ có nguy cơ mắc các bệnh di truyền như mù màu, bạch tạng, da vảy cá, đặc biệt là bệnh tan máu bẩm sinh - Thalassemia.
Chia sẻ về thực trạng hôn nhân cận huyết thống, BS Bùi Văn Nghệ, Trạm trưởng Trạm Y tế xã Vĩnh Đồng, huyện Kim Bôi cho biết: "Toàn xã hiện có 10 em bị bệnh huyết tán bẩm sinh (Thalassemia) thì có 2 em đã tử vong còn 8 em đang phải trải qua cuộc sống hết sức thương tâm.

Ly Mí Hờ và Sùng Thị Cáy, thôn Thèn Ván, xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn (Hà Giang) làm bố mẹ ở tuổi 16. Ảnh: Nguyễn Chiến - TTXVN
Một trong những câu chuyện đau lòng trên là trường hợp của gia đình anh Bùi Văn Q và chị Bùi Thị B ở xóm Cốc, xã Vĩnh Đồng. Được biết, anh chị sinh được 3 người con nhưng cả 3 đều thấp, ngơ ngẩn và kém thông minh so với những đứa trẻ đồng trang lứa. Anh Q, chị B cho biết, cả hai vốn là con chú con bác: "Chúng tôi chỉ biết ưng nhau thì lấy, mặc dù vẫn biết là có họ hàng với nhau. Chúng tôi nghĩ đơn giản là họ hàng gần gũi sẽ càng yêu thương nhau hơn, thế nên quyết định làm đám cưới. Ai ngờ, khi sinh các cháu ra lại bị bệnh như vậy, hiện gia đình chỉ mong sao có thể chữa trị cho các cháu đỡ khổ sau này", anh Q nói.
Lý giải về tình trạng hôn nhân cận huyết thống, một cán bộ dân số huyện Kim Bôi cho biết, xuất phát từ những phong tục, tập quán, đặc biệt là những hủ tục lạc hậu của một số bộ phận người dân tộc thiểu số khi trong làng có những nhà lang (gia đình giàu có) có con cái đến tuổi lấy vợ lấy chồng đều ép hoặc mai mối để con em mình hay trong cùng dòng họ lấy nhau. Họ quan niệm, có như vậy mới có thể giữ được của cải. Và những của cải này mới không bị người ngoài lấy, mang đi mất.
Thêm nữa, trước đây do đi lại giữa các vùng núi khó khăn, nên các trường hợp cận huyết thống lấy nhau là điều khó tránh. Cũng theo vị cán bộ dân số này, toàn huyện Kim Bôi hiện có hơn 90% dân số là người dân tộc Mường, người dân nơi đây bao đời chỉ quen với ruộng vườn, con trâu, cái cuốc. Cái chữ đối với nhiều người vẫn còn là một thứ xa xỉ. Văn hóa đối với họ chỉ là những "phép tắc" của ông cha để lại. Nhiều khi, mọi thứ như được sắp đặt sẵn, hoặc theo thói quen chứ không hề biết "hủ tục hay tập tục" ấy vi phạm như thế nào so với quy định của pháp luật.
Tập tục hôn nhân của nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số chỉ cho phép lấy người cùng dân tộc. Cứ 5 trường hợp kết hôn trong cộng đồng người Sán Chỉ thì có 1 cặp hôn nhân cận huyết. Hậu quả là những đứa trẻ bị thiểu năng, chậm phát triển, tuổi thọ trung bình của người Sán Chỉ là 45 tuổi... Hiện nay, chưa có đánh giá cụ thể về hậu quả của hôn nhân cận huyết khiến mọi biện pháp tuyên truyền thời gian qua chưa đủ sức răn đe.
Bà Bùi Thị Chuyên, Phó Giám đốc Trung tâm Y tế huyện Kim Bôi nói: "Tôi mang Luật ra để phổ biến thì họ bảo dân tộc họ vẫn thế, không có gì cấm kỵ cả. Tôi bảo sẽ ảnh hưởng đến con cái thì họ bảo, con cái vẫn sinh ra, vẫn "bình thường" đấy thôi".
Nỗ lực thay đổi tập tục
Theo báo cáo của Viện Dân tộc học Việt Nam, tại một số dân tộc miền núi phía Bắc hiện nay, tình trạng hôn nhân cận huyết thống diễn ra phổ biến, điển hình là các dân tộc: Si La, Pu Pép, Rơ Măm, Brâu, Ơ Ðu, Lô Lô, Hà Nhì... Những dân tộc này thường có tập quán nội hôn tộc người và phổ biến là hôn nhân con cô, con cậu.
Tại thị trấn Mèo Vạc (Hà Giang), có hơn 50 hộ thì có 8 trường hợp kết hôn con cô, con cậu. Ngoài ra, còn rất nhiều dân tộc khác như: Si La (Ðiện Biên, Lai Châu), Pu Péo (Hà Giang), Rơ Măm, Brâu (Kon Tum)... là những dân tộc có số dân dưới 1.000 người đang có nguy cơ suy giảm bởi nguyên nhân chủ yếu là có quan hệ huyết thống làm ảnh hưởng tới sức khỏe, dẫn tới chất lượng dân số thấp.
Thông qua các hoạt động tư vấn, khám chữa bệnh cho bà con, các bác sĩ và tuyên truyền viên dân số đã vận động bà con từ bỏ những hủ tục. Ảnh: T.L
Theo các chuyên gia y tế, những cặp hôn nhân cận huyết thống, kể cả những cặp vợ chồng khỏe mạnh, nhưng khi sinh con vẫn mang bệnh tật di truyền như: mù màu, bạch tạng, da vảy cá, còi cọc, down hoặc kém phát triển về trí não...
Là một trong những địa phương có tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống còn khá cao, tại Cao Bằng, tình trạng hôn nhân cận huyết thống xảy ra nhiều nhất đối với dân tộc Dao (64%), Mông (61%)... nhiều nhất tại 3 huyện Bảo Lạc, Nguyên Bình và Thông Nông, chiếm 45%. Theo các cộng tác viên dân số, những dân tộc này có những tập tục, tập quán riêng, nhiều khi cán bộ dân số không thể can thiệp được. Có trường hợp, ông bác mới sinh con gái, bà cô sang chơi mang cho vuông vải, phần để mừng đứa cháu mới chào đời, phần cũng là "miếng trầu bỏ ngõ", đánh dấu cô cháu gái tương lai sẽ trở thành nàng dâu của mình.
Tại Đắk Lăk, người Lô Lô vẫn còn một số đồng bào quan niệm "nước tốt không để chảy vào ruộng người khác". Dòng họ có vật quý không thể cho sang dòng họ khác, không thể chia tài sản với dòng họ khác. Họ cho phép con của anh em trai lấy con của chị em gái mà không có sự hạn chế nào. Khi cưới, họ sẽ được già làng, trưởng bản, dòng họ thừa nhận.
Chia sẻ vấn đề này, chị H’Oanh Ayun, cộng tác viên dân số buôn Pok, xã Ea Kênh, huyện Krông Pác (Ðăk Lăk) cho biết: "Khi tôi đi tuyên truyền, phổ biến quy định của pháp luật về hôn nhân cận huyết thống thì bà con nói dân tộc họ từ trước đến nay vẫn thế, già làng không cấm kỵ, con cái sinh ra vẫn bình thường, nếu đứa trẻ nào bị bệnh, bị chết thì tại "con ma rừng" thôi. Mặc dù biết hậu quả của hôn nhân cận huyết thống nhưng vì không có chế tài xử phạt, cho nên chúng tôi cũng chỉ biết tuyên truyền vậy, dân làng nghe theo thì tốt, không thì cũng đành chịu thôi, "phép vua vẫn thua lệ làng" mà...
Trước tình hình trên, Tổng cục DS-KHHGÐ đã và đang triển khai mô hình can thiệp làm giảm tình trạng hôn nhân cận huyết thống tại một số tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Theo đó, công tác tuyên truyền và giám sát tại cộng đồng sẽ được ưu tiên với việc xây dựng và tập huấn mạng lưới tuyên truyền viên cơ sở cho từng nhóm dân tộc. Xây dựng tốt mối quan hệ với những người có uy tín (già làng, những người cao tuổi...) trong cộng đồng dân cư để họ dạy và tuyên truyền con cháu, họ hàng của chính gia đình mình. Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề với sự tham gia của chính quyền, trưởng thôn bản, các tuyên truyền viên, người dân về vấn đề Luật Hôn nhân và Gia đình. Xây dựng chế tài ở cấp cộng đồng về việc xử lý những trường hợp vi phạm Luật Hôn nhân. Tổ chức các buổi biểu diễn liên hoan văn nghệ hoặc chiếu phim có chủ đề hôn nhân cận huyết thống nhằm nâng cao nhận thức của người dân...
Theo đó, nhiều địa phương đã "kích cầu" được nhiều mô hình sáng tạo. Tại Đăk Lăk, Câu lạc bộ "Phụ nữ nói không với tảo hôn, kết hôn cận huyết thống" được thành lập, thu hút nhiều hội viên tham gia. Chị H’Sân Noi Siu, Chi hội trưởng Chi hội phụ nữ buôn A2, cho biết: Những năm trước, trong buôn còn nhiều trường hợp tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống, trẻ gái mới 13 - 14 tuổi đã lấy chồng, nhiều đứa trẻ sinh ra sức khỏe yếu thậm chí mắc bệnh bẩm sinh vì cha mẹ kết hôn sớm và cận huyết thống. Chúng tôi đi vận động người dân không nên cho con cái kết hôn sớm, ít nhất phải đủ 19 tuổi trở lên mới được kết hôn và không để xảy ra kết hôn cận huyết thống vì sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, sự phát triển của thế hệ sau. Điều đáng mừng, từ khi triển khai mô hình đến nay, số trường hợp tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống giảm hẳn, đầu năm 2020 đến nay không có trường hợp nào xảy ra.
Nhiều mô hình tuyên truyền sáng tạo hiện đang được các địa phương triển khai hiệu quả (ảnh tư liệu)
BS Nguyễn Công Khanh, Chi Cục trưởng Chi cục DS-KHHGĐ Hà Giang thì cho biết, Chi cục DS-KHHGĐ đã kiện toàn và thành lập Ban Quản lý mô hình ở các cấp, thành lập 44 câu lạc bộ với các đối tượng tham gia là những người công tác ở các tổ chức hội cấp xã, thôn, bản và Câu lạc bộ Tư vấn, chăm sóc sức khỏe sinh sản ở trường học. Các câu lạc bộ được tổ chức sinh hoạt định kỳ hàng tháng, thu hút hơn 34.000 lượt người tham gia trao đổi, thảo luận các vấn đề về: Điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật; tác hại, hệ lụy của tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống; cách thức phòng ngừa và giải quyết các vụ việc tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống, thực hiện tuyên truyền lồng ghép trong các hội nghị, cuộc họp của thôn, xã...".
Ngoài ra, Chi cục còn tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ theo chủ đề cho Ban Chủ nhiệm của 44 câu lạc bộ; tổ chức các hội nghị trao đổi kinh nghiệm giữa các xã thực hiện mô hình nhằm tạo cơ hội giao lưu, trao đổi thông tin, học tập những cách làm hay, chia sẻ những khó khăn, cách giải quyết vướng mắc trong thời gian hoạt động để mô hình đem lại hiệu quả.
Tỉnh Yên Bái xác định, do đặc điểm của công tác dân số hiện nay cũng như sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ nên việc đổi mới hình thức tuyên truyền hết sức cần thiết. Ở Yên Bái tuyên truyền trực tiếp cho học sinh trong các trường học. Để làm được điều này, tỉnh Yên Bái, đặc biệt là huyện Mù Cang Chải đã phối hợp với các trường học tổ chức nhiều buổi nói chuyện, tuyên truyền cho học sinh hiểu về những ảnh hưởng khi anh, chị em trong gia đình lấy nhau; những hệ lụy từ hôn nhân nhân cận huyết thống và tảo hôn. Bên cạnh đó là sự vào cuộc của các ban, ngành, đoàn thể, đặc biệt là các già làng, trưởng bản, những người có uy tín trong cộng đồng tới từng hộ dân đã giảm thiểu tình trạng hôn nhân cận huyết và tảo hôn, góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất lượng dân số.
Người sống lâu nhất thế giới không đến phòng tập thể dục hay chạy marathon, muốn được như họ thì hãy làm 3 điều
Dân số và phát triển - 3 giờ trướcMôi trường sống của các cụ trăm tuổi ở "Vùng Xanh" (Blue Zones) khiến họ cứ mỗi 20 phút lại tự nhiên vận động một chút - thay vì dồn buổi tập vào một thời điểm cố định trong ngày.
Cuộc thi "Rung chuông vàng" nâng cao kiến thức dân số và sức khỏe sinh sản trong trường học
Dân số và phát triển - 16 giờ trướcGĐXH - Thông qua cuộc thi, học sinh được trang bị kiến thức về dân số, phát triển và sức khỏe sinh sản vị thành niên; rèn kỹ năng sống, ứng xử, phòng chống xâm hại và bạo lực học đường. Đây cũng là sân chơi lành mạnh để các em thể hiện trí tuệ, sáng tạo, giao lưu và chia sẻ quan điểm về những vấn đề văn hóa - xã hội.
8 bước chủ động phòng tránh và giảm thiểu trầm cảm sau sinh
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcTrầm cảm sau sinh là một rối loạn tâm trạng nghiêm trọng, gây rủi ro cao cho sức khỏe tinh thần của người mẹ và sự an toàn của trẻ sơ sinh. Tìm hiểu 8 bước tiếp cận quan trọng giúp phụ nữ giảm thiểu nguy cơ trầm cảm sau sinh và vững vàng trong hành trình nuôi con.
Thoái vị đĩa đệm cột sống lưng: Cần làm gì để hết đau?
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH - Chỉ một ngày khi đồng ý phẫu thuật thoát vị đĩa đệm cột sống lưng, cô L. đã có thể tự đi lại và được xuất viện sau 1 tuần.
Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (3): Giải pháp toàn diện và sức mạnh hệ thống chính trị
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Sau khi nhìn nhận rõ thách thức từ con số và gốc rễ từ tư tưởng xã hội, cuộc chiến kiểm soát nhằm giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tại Hà Nội bước sang một giai đoạn mới: Giai đoạn hành động sáng tạo và quyết liệt.
Mang thai bị viêm âm đạo ảnh hưởng thế nào đến thai nhi?
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Viêm âm đạo do nấm không gây nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng, nhưng nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến một số bệnh lý cho thai phụ và thai nhi.
Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (2): Nguyên nhân sâu xa và rào cản nhận thức
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) dai dẳng tại Hà Nội không phải là kết quả của sự ngẫu nhiên. Nó là hệ quả trực tiếp của sự xung đột giữa các giá trị tiến bộ về bình đẳng giới và những tư tưởng truyền thống đã ăn sâu vào tiềm thức xã hội.
Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (1): Thách thức lớn cho an sinh và chất lượng dân số Thủ đô
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH - Hà Nội, Thủ đô với gần 8,8 triệu dân đã đạt được mức sinh thay thế lý tưởng (khoảng 2,1 con/phụ nữ) và đang phấn đấu tiếp tục duy trì mức sinh thay thế trong năm 2025 và những năm tiếp theo. Tuy nhiên, đằng sau thành tựu này, thành phố đang phải đối mặt với một thách thức lớn và dai dẳng là tình trạng mất cân bằng tỉ số giới tính khi sinh.
Đi khám xương khớp nghĩ bệnh tuổi trung niên, người phụ nữ 52 tuổi bất ngờ phát hiện tiền ung thư cổ tử cung
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH - Đang ở độ tuổi được khuyến cáo tầm soát ung thư cổ tử cung, người bệnh được bác sĩ khuyến nghị thực hiện xét nghiệm HPV. Kết quả cho thấy dương tính với HPV type 1
5 nhóm phụ nữ nên chú ý khám sàng lọc ung thư cổ tử cung
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcSàng lọc ung thư cổ tử cung rất quan trọng để phát hiện sớm và cải thiện đáng kể cơ hội điều trị thành công. Vậy những chị em nào nên đặc biệt chú ý sàng lọc căn bệnh này?
Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.