Thực hiện mục tiêu chương trình DS-KHHGĐ: Nền tảng cho phát triển bền vững
Để hoạch định chiến lược phát triển trong những giai đoạn tới, từ kết quả cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, Tổng cục Thống kê đã xây dựng và công bố chính thức báo cáo dự báo dân số Việt Nam dài hạn trong giai đoạn 2009-2049.
![]() |
Thực hiện thành công mục tiêu chương trình DS-KHHGĐ sẽ làm cơ sở cho phát triển bền vững của Việt Nam. Ảnh: Chí Cường. |
Thách thức về qui mô dân số
Số dân nước ta tại thời điểm Tổng điều tra 2009 là 85,8 triệu người và vào năm cuối của thời kỳ dự báo (năm 2049), số dân nước ta là 108,7 triệu người theo phương án trung bình, 119,8 triệu người theo phương án cao, 98,3 triệu người theo phương án thấp và 111,8 triệu người theo phương án không đổi.
Trong vòng 40 năm, từ 2009-2049, số dân nước ta tăng thêm khoảng 26,6%, 39,6%, 14,5% và 30,3% tương ứng theo các phương án: Trung bình, cao, thấp và không đổi. Như vậy số dân tăng lên tương đương theo các phương án là khoảng 23 triệu, 34 triệu, 12 triệu và 26 triệu. Hãy hình dung là đến giữa thế kỷ 21, số dân tăng lên theo 4 phương án sẽ tương đương với số tỉnh tăng lên (tính theo dân số trung bình của một tỉnh) là 23 tỉnh, 34 tỉnh, 12 tỉnh, 26 tỉnh. Như vậy, đến giữa thế kỷ 21dân số nước ta sẽ tăng lên cao nhất là gấp đôi và thấp nhất là tăng thêm 1/4 số tỉnh đã có hiện nay. Biết bao khó khăn cho các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội sẽ được đặt ra.
Theo phương án trung bình, trong 5 năm đầu của thời kỳ dự báo, 2009-2014, dân số nước ta dự báo có tỷ suất tăng hàng năm là 1,09%. Trong tương lai, tỷ suất tăng dân số dự báo giảm và còn 0,11% trong giai đoạn 2044-2049. Theo phương án trung bình, trong giai đoạn 2009-2014, dự báo số dân cả nước tăng thêm bình quân mỗi năm 961 nghìn người. Con số này tiếp tục giảm xuống đến giai đoạn 2024-2029 là 642 nghìn người, sau đó giảm dần, đến giai đoạn 2044-2049 còn 121 nghìn người.
Thách thức về cơ cấu tuổi và đô thị hóa
Số liệu về tỷ số giới tính (số nam/100 nữ) và tuổi trung vị của dân số cả nước theo bốn phương án. Sự khác nhau về mức độ sinh theo các phương án khác nhau góp phần làm thay đổi cơ cấu tuổi của dân số. Cả bốn phương án đều cho thấy dân số nước ta sẽ bị già hoá đáng kể. Theo phương án trung bình, tuổi trung vị tăng nhanh, từ 27,9 năm vào năm đầu của thời kỳ dự báo (2009) lên 40,5 năm vào năm cuối kỳ dự báo (2049), tăng 12,6 năm trong vòng 40 năm. Phương án thấp có mức tăng nhanh hơn; phương án cao và không đổi có mức tăng chậm hơn so với phương án trung bình. Chênh lệch về tuổi trung vị giữa bốn phương án tăng dần vào năm cuối kỳ dự báo.
Cả bốn phương án đều cho thấy tỷ trọng nhóm dân số dưới 15 tuổi giảm. Theo phương án trung bình, mức giảm trong vòng 40 năm của thời kỳ dự báo là gần 7 điểm phần trăm (24,5% năm 2009 xuống 17,6% năm 2049). Mức giảm của phương án cao, thấp và không đổi tương ứng là 3,9; 12,0 và 5,8 điểm phần trăm.
Trong bốn phương án, phương án trung bình là mục tiêu chúng ta phải thực hiện. Số liệu kết quả dự báo cho khu vực thành thị, nông thôn được đưa ra theo phương án trung bình số dân thành thị nước ta tăng từ 25,4 triệu người năm 2009 lên 63,9 triệu người năm 2049.
Như vậy, sau 40 năm số dân thành thị nước ta dự báo tăng thêm gần 38,5 triệu người, bình quân mỗi năm tăng thêm khoảng 962 nghìn người, đạt tỷ trọng dân số thành thị ở mức 58,8% vào năm 2049. Theo kết quả dự báo dân sô, qui mô dân số thành thị/ nông thôn sẽ có sự biến động mạnh, đến những năm 35 tỷ lệ dân số thành thị/nông thôn sẽ bằng nhau và đến cuối thế kỷ 21 tỷ lệ dân số thành thị sẽ lớn hơn tỷ lệ dân số nông thôn (60% và 40%). Điều này cho thấy sẽ nảy sinh biết bao thách thức về phát triển cơ sở hạ tầng, các vấn đề phát triển xã hội, xây dựng nếp sống văn minh đô thị, các vấn đề về mật độ dân số đông ở thành thị, giải quyết công ăn việc làm giữa thành thị/nông thôn...
Thực hiện mục tiêu chương trình dân số cũng đảm bảo cho việc tăng trưởng cơ cấu dân số đô thị một cách phù hợp với mục tiêu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Dân số đô thị sẽ đông hơn dân số nông thôn ở mức hợp lý. Dân số thành thị vào cuối thế kỷ 21 ở mức khoảng 63,9 triệu so với 44,8 triệu dân số nông thôn. Điều này sẽ giúp việc tăng tỷ lệ dân số thành thị một cách bền vững, đảm bảo cho sự phát triển, không gây xáo trộn ồ ạt do các luồng di dân tự do. |
Về qui mô dân số, Việt Nam sẽ có qui mô dân số khoảng trên 100 triệu (108,7 triệu) người vào giữa thế kỷ 21. Đây là một qui mô thích hợp nhất. Đạt được mục tiêu này dân số Việt Nam chỉ tăng thêm khoảng 10 triệu người trong 40 năm tới. Trong khi đó ở những giai đoạn trước dân số Việt Nam tăng gấp đôi trong khoảng 35 năm. Nếu không tiếp tục thực hiện chương trình DS-KHHGĐ thì số dân tăng thêm sẽ là gấp đôi (21,5 triệu người). Nếu tính theo dân số trung bình của một tỉnh thì số dân tăng thêm sẽ tương đương với việc tăng thêm 25 tỉnh/thành phố hoặc tương đương tăng thêm khoảng 2 nước trên thế giới với qui mô dân số trung bình (13 triệu dân/nước). Như vậy biết bao thách thức về công ăn việc làm, an sinh xã hội cần giải quyết cho số dân tăng thêm này.
Việt Nam hiện là một trong những nước có mật độ dân số cao nhất thế giới. Thực hiện được mục tiêu chương trình dân số thì mật độ dân số Việt Nam cũng sẽ tăng thêm khoảng 25% (328 người/Km2). Nếu không thực hiện được thì mật độ dân số sẽ tăng thêm 40% (362 người/Km2). Việt Nam đang là một nước nông nghiệp với dân số nông thôn khoảng 70%. Mật độ dân số đông sẽ khiến quỹ đất nông nghiệp ngày một cạn kiệt (quĩ đất canh tác của Việt Nam chỉ bằng 1/3 mức an ninh lương thực theo cảnh báo của tổ chức lương nông quốc tế).
Về cơ cấu dân số, nếu thực hiện được mục tiêu chương trình dân số sẽ đảm bảo duy trì ổn định mức sinh ở mức thấp hợp lý, không gây áp lực cho các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, không gây tác động làm mất cân bằng giới tính khi sinh. Thực hiện mục tiêu này tỷ lệ giới tính chung phải ổn định ở mức: 97-98/100.
Chúng ta cần duy trì được mức giảm sinh ổn định, nhưng cũng phải giữ được cơ cấu nhóm người trong độ tuổi lao động ổn định. Điều này nhằm đảm bảo cho việc duy trì giai đoạn cơ cấu "dân số vàng". Già hóa dân số là qui luật tự nhiên của mọi quốc gia khi đã đạt mức sinh thay thế. Việc thực hiện mục tiêu chương trình dân số sẽ làm giảm bớt tốc độ tăng nhanh tỷ lệ người cao tuổi. Tỷ lệ người cao tuổi của Việt Nam từ 65 trở lên tăng từ 6,4% năm 2009 lên 18% vào cuối thế kỷ 21 (nếu theo phương án mức sinh thấp thì sẽ là 20%). Việc giảm bớt tỷ lệ dân số già sẽ tạo điều kiện cho việc phát triển các dịch vụ an sinh xã hội một cách tốt hơn, tạo điều kiện chăm sóc người cao tuổi tốt hơn.

Thanh Hóa: Nâng tầm chất lượng dân số vì một tương lai bền vững
Dân số và phát triển - 15 phút trướcGĐXH - Thanh Hóa đã và đang triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dân số toàn diện, từ chăm sóc sức khỏe, truyền thông, đến hoàn thiện pháp luật, góp phần kiến tạo tương lai bền vững.

Hưởng ứng Ngày Dân số Thế giới 11/7/2025 với chủ đề: 'Quyền tự quyết sinh sản trong bối cảnh toàn cầu thay đổi'
Dân số và phát triển - 44 phút trướcNgày Dân số Thế giới (11/7) là sáng kiến của Liên Hợp quốc, được tổ chức hằng năm vào ngày 11/7, nhằm nâng cao nhận thức toàn cầu về các vấn đề liên quan đến Dân số như tăng trưởng dân số, sức khỏe sinh sản, bình đẳng giới và phát triển bền vững.

Trao quyền tự quyết về sinh sản cho các cặp vợ chồng hướng đến sự phát triển bền vững của đất nước
Dân số và phát triển - 50 phút trướcGĐXH – Các chuyên gia nhận định, không thể có phát triển bền vững nếu thiếu đi quyền tự quyết về sinh sản. Khi đảm bảo quyền được lựa chọn của mỗi người, chúng ta đang trao quyền cho các gia đình, thúc đẩy bình đẳng giới và mở ra tiềm năng của thay đổi dân số.

Các chất dinh dưỡng cha mẹ cần bổ sung cho con khi dậy thì
Dân số và phát triển - 4 giờ trướcChăm sóc dinh dưỡng đúng cách trong tuổi dậy thì không chỉ giúp trẻ phát triển tối ưu về thể chất mà còn đặt nền móng cho sức khỏe tâm lý và tinh thần. Do đó, việc định hướng thói quen ăn uống khoa học, lựa chọn thực phẩm lành mạnh là vô cùng quan trọng.

Ngày Dân số Thế giới 11/7: Nâng cao nhận thức của cộng đồng về vai trò, quyền lợi và trách nhiệm trong vấn đề sinh sản
Dân số và phát triển - 5 giờ trướcVăn phòng Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam đã công bố thông điệp chính thức của Ngày Dân số Thế giới 11/7/2025: "Quyền tự quyết về sinh sản trong một thế giới đang thay đổi".

Quyền tự quyết sinh sản và hành trình 'gỡ' định kiến ở Nghệ An
Dân số và phát triển - 18 giờ trướcTrong một thế giới đang chuyển mình, quyền sinh sản không chỉ là lựa chọn cá nhân mà còn là thước đo tiến bộ xã hội. Ở Nghệ An, hành trình phá vỡ định kiến "trọng nam khinh nữ" đang được chính quyền và ngành y tế kiên trì thúc đẩy để mỗi người phụ nữ dù ở vùng sâu hay nơi phố thị đều được trao quyền quyết định tương lai sinh sản của chính mình.

5 điều chị em cần biết về u xơ tử cung
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcU xơ tử cung là một bệnh lý lành tính khá phổ biến ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, đặc biệt là sau tuổi 30. Nếu bạn đang băn khoăn về u xơ tử cung, hãy tìm hiểu 5 điều quan trọng sau đây để hiểu rõ hơn về tình trạng này.

Sở Y tế TP Huế tổ chức Tọa đàm chào mừng Ngày Dân số Thế giới 11/7
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Ngày 9/7, Sở Y tế TP Huế tổ chức Tọa đàm chào mừng Ngày Dân số Thế giới 11/7 và lồng ghép triển khai các văn bản, chính sách về công tác Dân số trong tình hình mới.

Hà Nội mít tinh kỷ niệm Ngày Dân số Thế giới 11/7
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Sáng 8/7, UBND thành phố Hà Nội tổ chức lễ mít tinh kỷ niệm Ngày Dân số Thế giới 11/7 với chủ đề: “Quyền tự quyết về sinh sản trong một thế giới đang thay đổi”.

Ai dễ mắc herpes sinh dục?
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcHerpes sinh dục là một bệnh nhiễm trùng phổ biến gây ra các vết loét hoặc mụn nước ở bộ phận sinh dục. Tìm hiểu những người dễ mắc herpes sinh dục.

Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.