Chiến lược DS/SKSS Việt Nam giai đoạn 2011-2020: "Sợi chỉ đỏ" là nâng cao chất lượng dân số
Giadinh.net - Tại cuộc Hội thảo lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo lần thứ nhất “Chiến lược DS/SKSS Việt Nam, giai đoạn 2011-2020”, do Tổng cục DS-KHHGĐ tổ chức, phóng viên Báo GĐ&XH đã có cuộc phỏng vấn GS, TS Nguyễn Đình Cử - Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội, Trường Đại học Kinh tế quốc dân xoay quanh việc xác định vấn đề cốt lõi cho Chiến lược mới.
GS.TS Nguyễn Đình Cử. |
- Có thể nói, chúng ta đã thực hiện thành công Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010, vì về cơ bản đã đạt được cả hai mục tiêu cụ thể của Chiến lược này, tức Tổng tỷ suất sinh (TFR) ở mức 2,11 vào năm 2005 và Chỉ số phát triển con người (HDI) không ngừng tăng lên.
Tuy nhiên, thành công của chúng ta chưa trọn vẹn. Nếu xét ở cấp độ vùng và tỉnh thì còn nhiều vùng/tỉnh không đạt được mục tiêu của Chiến lược. Cụ thể là, theo phân tích và đánh giá của chúng tôi, đối với mục tiêu thứ nhất, có tới 25 tỉnh đã hoặc sẽ không đạt được mức sinh thay thế vào thời điểm Chiến lược đề ra: Năm 2005 (các tỉnh đồng bằng) và 2010 (các tỉnh tỉnh vùng sâu, vùng xa và vùng nghèo). Thêm nữa, đến năm 2010, ít nhất cũng có 7 tỉnh không thể đạt mục tiêu thứ hai, tức là HDI không thể đạt mức 0,7.
Tình hình nói trên đã chia các tỉnh của Việt Nam thành 2 nhóm: Nhóm thứ nhất có trình độ phát triển cao, mức sinh thấp và nhóm thứ hai có trình độ phát triển thấp nhưng mức sinh cao. Đây là một thách thức cần được xử lý trong Chiến lược mới.
Thưa giáo sư, bối cảnh kinh tế - xã hội nào cần nhấn mạnh khi xây dựng Chiến lược DS/SKSS giai đoạn 2011-2020?
Nâng cao chất lượng dân số phải thể hiện tất cả các giai đoạn của vòng đời mỗi người (Ảnh: TL).
|
- Những đặc điểm nổi bật của dân số Việt Nam mà chúng ta đã nói từ lâu là quy mô dân số lớn, mật độ dân số rất cao; mất cân bằng giới tính khi sinh thì cũng đã thấy từ kết quả Tổng Điều tra dân số và nhà ở 1999. Theo tôi, đặc điểm mới và nổi bật nhất, khác căn bản với thời chúng ta xây dựng Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 là: Việt Nam đã duy trì được xu thế giảm sinh một cách vững chắc và đạt mức sinh thay thế liên tục từ năm 2005 đến nay. Khẳng định này có thể gây tranh cãi nhưng nếu chúng ta xem xét quá trình giảm Tổng tỷ suất sinh (TFR) trong gần thập niên vừa qua thì sẽ rõ (xem box).
Mặc dù có một vài thời điểm mức sinh “lên xuống” với biên độ dao động nhỏ nhưng nhìn chung, xu thế giảm sinh rõ ràng đã được duy trì. Tôi vẫn thường ví đây là “viên bi trong lòng máng” (viên bi có thể dao động lên xuống nhưng đó là sự dao động trong lòng một cái máng hẹp và đặt ở tư thế dốc xuống). Việt Nam duy trì được xu thế giảm sinh vững chắc là do kiên trì chính sách giảm sinh và những tiến bộ nhanh chóng về kinh tế - xã hội.
Đặc điểm nổi bật thứ hai là chất lượng dân số chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta tăng dần nhưng chưa bao giờ lọt vào tốp 100 nước có HDI cao nhất trong tổng số gần 200 nước so sánh. Đặc biệt là chất lượng dân số khi sinh còn nhiều thách thức. Tỷ lệ mắc bệnh, tật do rối loạn chuyển hóa và di truyền ở trẻ sơ sinh, tử vong sơ sinh còn cao; suy dinh dưỡng trẻ em thể thấp còi đang là vấn đề cấp bách; gia tăng tình trạng trẻ em thừa cân, rối nhiễu tâm thần, tự kỷ, tiểu đường...
Tình trạng SKSS có thể coi là một nội dung của chất lượng dân số cũng đang có nhiều vấn đề, như: Tử vong mẹ, số ca phá thai và vô sinh còn nhiều, nhiễm khuẩn đường sinh sản khá phổ biến; tỷ lệ người bị bệnh lây truyền qua đường tình dục - HIV và ung thư đường sinh sản còn khá cao...
Từ những tình hình như trên, theo Giáo sư đâu là vấn đề cốt lõi nhất mà Chiến lược DS/SKSS giai đoạn 2011 – 2020 cần tập trung giải quyết?
- Để trả lời câu hỏi này, cần chú ý rằng: Việt Nam có hàng trăm chiến lược (chiến lược quốc gia, chiến lược của ngành, của địa phương), bao trùm là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, Chiến lược DS/SKSS cần xác định đúng vị trí vai trò của mình trong hệ thống các chiến lược nói trên để tránh trường hợp “lấn sân”. Chiến lược DS-KHHGĐ (1993- 2000) chỉ giải quyết vấn đề số lượng dân số thông qua giảm sinh. Chiến lược Dân số Việt Nam 2001 - 2010, vẫn đề ra mục tiêu giải quyết vấn đề số lượng dân số và coi đây là mục tiêu số 1 nhưng đã bắt đầu đặt ra mục tiêu số 2 là giải quyết vấn đề chất lượng dân số.
Với các chú ý nêu trên và việc trình bày trong trả lời những câu hỏi trước, có thể nhận thấy rằng, vấn đề cốt lõi nhất mà Chiến lược DS/SKSS lần này cần giải quyết là chất lượng dân số. Nó phải là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt Chiến lược, từ mở đầu cho đến các phụ lục của Chiến lược, đặc biệt được thể hiện trong quan điểm, mục tiêu, giải pháp và hoạt động.
Khi lựa chọn “sợi chỉ đỏ” là chất lượng dân số, Chiến lược DS/SKSS sẽ giải quyết được toàn bộ vấn đề này?
- Không! không một chiến lược nào có thể giải quyết toàn bộ vấn đề chất lượng dân số, vì chất lượng dân số liên quan đến nhiều khía cạnh: Thể chất, trí tuệ và tinh thần. Chất lượng dân số liên quan đến nhiều đối tượng: Bào thai, sơ sinh, trẻ em dưới 6 tuổi, dân số 6- 24 tuổi (đi học), vị thành niên, người lao động, người cao tuổi...
Vì vậy tôi nghĩ, đây là vấn đề của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và nhiều chiến lược bộ phận. Mỗi chiến lược bộ phận sẽ đóng góp một phần vào việc nâng cao chất lượng dân số, như: Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, Chiến lược giáo dục, Chiến lược phát triển dạy nghề; Chiến lược phát triển văn hoá,... Còn chiến lược DS/SKSS có thể tập trung vào chất lượng dân số khi sinh và SKSS của toàn bộ dân số.
Cuối cùng, tôi muốn nói rằng, giữa số lượng và chất lượng dân số có mối quan hệ chặt chẽ. Trước đây ta đẩy mạnh KHHGĐ cũng nhằm nâng cao chất lượng dân số. Ngày nay ta tập trung nâng cao chất lượng dân số thì cũng không thể không thực hiện tốt KHHGĐ, nhất là ở các địa phương mức sinh còn cao.
Thưa Giáo sư, ông có cho rằng Chiến lược DS/SKSS giai đoạn 2011-2020 là một “cuộc cách mạng” trong lĩnh vực này hay không?
- Nhiều công việc sẽ là tiếp nối truyền thống nhưng có nhiều cái phải phát triển, sẽ có nhiều cái mới. Chẳng hạn, lĩnh vực truyền thông, trước đây ta nói: “Gái hay trai, chỉ 2 là đủ” nhưng bây giờ phải nói: “Gái hay trai, chỉ 2 chất lượng cao”. Như vậy, truyền thông và dịch vụ giai đoạn tới không chỉ sao cho mỗi cặp vợ chồng có 2 con mà còn là 2 con chất lượng cao. Và chất lượng cao phải thể hiện ở tất cả các giai đoạn của vòng đời mỗi người, từ bào thai cho đến khi trở thành người cao tuổi.
Xin cảm ơn Giáo sư!
7 lời khuyên giúp mẹ bầu chuyển dạ dễ dàng hơn
Dân số và phát triển - 8 giờ trướcNhiều mẹ bầu lo lắng, căng thẳng trước khi chuyển dạ, kể cả những phụ nữ đã từng sinh con. Dưới đây là 7 lời khuyên giúp mẹ bầu có thể làm để quá trình chuyển dạ dễ dàng và suôn sẻ hơn.
Bị thủy đậu khi mang thai nguy hiểm thế nào?
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcTỷ lệ phụ nữ mang thai mắc thủy đậu không cao hơn so với mặt bằng chung tỷ lệ mắc bệnh thủy đậu ở người lớn, tuy nhiên mức độ nghiêm trọng của bệnh thường nặng nề hơn.
Nghệ An tổ chức Hội thi 'Người cao tuổi sống vui, sống khoẻ'
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH - Hội thi là hoạt động thiết thực nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm cho cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về người cao tuổi. Đồng thời, khẳng định vai trò, sự cống hiến của người cao tuổi đối với mọi mặt của đời sống...
Ung thư buồng trứng có chữa được không?
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcUng thư buồng trứng là căn bệnh thường tiến triển âm thầm và triệu chứng không rõ ràng khiến nhiều người chủ quan, khi đi khám đã ở giai đoạn muộn. Vậy ung thư buồng trứng có chữa được không, làm thế nào để phát hiện sớm?
Có phải trẻ béo phì dễ dậy thì sớm?
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcTrẻ béo phì có nguy cơ cao dậy thì sớm hơn so với trẻ có cân nặng bình thường. Vậy nguyên nhân tại sao trẻ béo phì lại dễ bị dậy thì sớm và có thể phòng ngừa được không?
Phụ nữ mang thai bị đa ối nên điều chỉnh chế độ ăn như thế nào?
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcĐa ối là khi lượng nước ối vượt quá mức bình thường ảnh hưởng đến sức khỏe cả mẹ và bé. Mặc dù chế độ ăn không phải là yếu tố quyết định duy nhất nhưng việc điều chỉnh chế độ ăn uống hợp lý có thể hỗ trợ cải thiện tình trạng này.
Giảm nguy cơ sinh non khi bà mẹ được quản lý thai nghén đầy đủ
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcNguy cơ sinh non sẽ được giảm thiểu tối đa nếu thai phụ được khám thai và thực hiện sinh tại cơ sở y tế có đầy đủ phương tiện kỹ thuật cùng đội ngũ y bác sỹ trợ giúp.
Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcGĐXH - Với phương châm "đưa chính sách đến gần dân," xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng (chăm sức khỏe sinh sản, hỗ trợ người cao tuổi) và phát huy vai trò của đội ngũ cộng tác viên dân số.
Bổ ích hội thi rung chuông vàng tìm hiểu kiến thức về dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcGĐXH - Hội thi giúp cho học sinh nâng cao những kỹ năng hoạt động, kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. Đồng thời, tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích để học sinh thể hiện tài năng, trí tuệ, sự sáng tạo.
Gần 150.000 em bé chào đời nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcSau 25 năm, Việt Nam có gần 300.000 chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm được thực hiện, 147.000 em bé ra đời khoẻ mạnh. Trong đó, có gần 3.000 trẻ được chào đời tại Bệnh viện Hùng Vương nhờ kỹ thuật IVF.
Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.