Để quy mô, cơ cấu dân số hài hòa nhất
GiadinhNet - Việt Nam đang thực hiện Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản (DS&SKSS) giai đoạn 2011 - 2020 với mục tiêu là chủ động điều chỉnh tốc độ gia tăng dân số và duy trì mức sinh thấp hợp lý, tập trung nâng cao chất lượng dân số để có được quy mô và cơ cấu dân số hài hòa nhất, vì sự phát triển bền vững của đất nước…
Không chỉ tập trung vào công tác giảm sinh
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần XI và Chiến lược DS-SKSS 2011-2020 đã đề ra: Đến 2015, quy mô dân số Việt Nam không vượt quá 93 triệu người. Trước đó, từ năm 1999 trở về trước, mỗi năm dân số nước ta tăng khoảng từ 1 triệu – 1,3 triệu người. Với những thành công của công tác DS-KHHGĐ, từ năm 1999 - 2009, trung bình mỗi năm dân số Việt Nam chỉ tăng 952.000 người. Từ năm 2009 đến nay, mỗi năm Việt Nam tăng khoảng 900.000 người. Điều tra biến động dân số 1/4/2012, quy mô dân số Việt Nam là 88,78 triệu người. Nếu mỗi năm tăng gần 1 triệu người thì đến năm 2015 ước tính Việt Nam có quy mô dân số không vượt quá 92 triệu người. Như vậy, chỉ tiêu về quy mô dân số đến năm 2015 sẽ khoảng dưới 93 triệu, đạt được chỉ tiêu đề ra.
Trong những năm qua, tổng tỷ suất sinh (TFR - số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ) liên tục giảm: từ 6,39 con năm 1960 xuống còn 2,09 con năm 2006 (dưới mức sinh thay thế, được các nhà khoa học tính toán là 2,1 con - số con đủ thay thế cho người mẹ trong suốt cuộc đời họ). Liên tục từ đó đến nay, Việt Nam luôn ở ngưỡng đạt mức sinh thay thế. Mô hình “sinh sớm, sinh nhiều con” từ nhiều thập kỷ trước năm 1993 đã chuyển sang mô hình “sinh muộn, sinh ít con” kể từ khi đạt mức sinh thay thế vào năm 2006. Xu hướng phụ nữ kết hôn muộn sau tuổi 22, sinh con trong độ tuổi từ 25 đến 34 tuổi và chỉ sinh 1 hoặc 2 con ngày càng phổ biến và tăng dần qua từng giai đoạn nhằm thích ứng với xã hội ngày càng hiện đại.
Hiện nay Việt Nam đã đạt mức sinh thay thế. Có câu hỏi đặt ra rằng, vậy có cần thiết phải tiếp tục duy trì công tác giảm sinh như thời gian qua? Đảng và Nhà nước ta đã nhìn trước vấn đề này nên Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra chỉ tiêu đến 2015 tỷ lệ tăng dân số của Việt Nam ở mức 1%. Như vậy, Nghị quyết ĐH Đảng lần thứ XI đề ra chỉ tiêu mỗi năm phấn đấu giảm tỷ lệ tăng dân số khoảng 0,1%o. Chỉ tiêu này là rất thấp so với trước đây. Năm 1999 - 2000, tỷ suất sinh thô giảm 0,7%o, năm 2004 - 2005 giảm 0,6%o, năm 2010 - 2011 giảm 0,5%o. Chỉ tiêu phấn đấu từ năm 2011- 2015, mỗi năm chỉ giảm tỷ suất sinh thô là 0,1%o. Điều đó cho thấy, Đại hội Đảng đã đưa ra quyết sách trong thời gian tới: Việc giảm tỷ lệ sinh không lớn như trước nữa.
Chiến lược DS&SKSS Việt Nam giai đoạn 2011-2020 mà Thủ tướng phê duyệt đã nêu rõ 5 lĩnh vực ưu tiên trong công tác dân số: Giải quyết đồng bộ các vấn đề dân số, sức khoẻ sinh sản, tập trung nâng cao chất lượng dân số, cải thiện sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, phát huy lợi thế cơ cấu “dân số vàng”, chủ động điều chỉnh tốc độ tăng dân số và kiểm soát tỷ số giới tính khi sinh” và đặt ra mục tiêu “duy trì mức sinh thấp hợp lý”. Theo đó, tổng tỷ suất sinh là 1,9 con vào năm 2015 và 1,8 con vào năm 2020.
Chủ động điều chỉnh và duy trì mức sinh thấp hợp lý
Chủ trương đường lối của Đảng đã có, Chính phủ đã ban hành Chiến lược, vấn đề đặt ra là chúng ta sẽ thực hiện việc này như thế nào trong thời gian tới.
Tuy đã đạt mức sinh thay thế năm 2006 và duy trì đến năm 2011, nhưng trong thời gian tới, mức sinh còn biến động khó lường: Hoặc là tăng trở lại, hoặc là tiếp tục giảm xuống mức rất thấp như một số nước đã gặp phải. Cả hai giả định trên đều gây hệ lụy không tốt đến nhân khẩu học và tác động xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội cho hiện tại và tương lai. Mặc khác, thực trạng và xu hướng tiếp tục chênh lệch mức sinh giữa các địa phương sẽ gây ra sự bất lợi về nhân khẩu học trong tương lai và càng làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các địa phương trong cả nước.
Để khắc phục tình trạng nêu trên, Bộ Y tế đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp, chính sách để duy trì mức sinh thấp hợp lý nhằm bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững kinh tế- xã hội của cả nước và giữa các địa phương. Dựa vào kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 2009, Tổng cục Thống kê đã đưa ra 3 phương án: Phương án 1- mức sinh cao: Để cho tốc độ tăng dân số cao, không điều chỉnh thì Việt Nam sẽ đạt dân số cực đại vào năm 2060 với quy mô dân số khoảng 120 triệu người. Phương án 2 – mức sinh thấp: Dân số Việt Nam sẽ đạt 100 triệu vào năm 2040. Phương án 3 - mức sinh thấp hợp lý: Việt Nam sẽ đạt quy mô dân số cực đại vào năm 2050 với khoảng 110 triệu dân.
Nếu chỉ nhìn vào quy mô thì chúng ta thấy rằng nên chọn phương án mức sinh thấp vì như vậy quy mô dân số ít nhất, sớm đạt cực đại nhất. Tuy nhiên trong tương lai, cơ cấu dân số sẽ không hợp lý, tình trạng tháp dân số có hình tam giác lộn ngược: tỷ lệ người cao tuổi lớn, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động và trẻ em ít đi. Công tác dân số không phải là chỉ đáp ứng những nhu cầu hiện nay, của thế hệ hiện nay; chúng ta cần nhìn xa hơn, dài hạn hơn mang tính chiến lược hơn.
Nếu chọn phương án mức sinh cao thì dân số nước ta sẽ quá đông, mật độ sẽ quá cao và sẽ khó mà phát triển kinh tế xã hội được. Tổng cục DS-KHHGĐ đã đề xuất phương án 3 – mức sinh thấp hợp lý: Chấp nhận quy mô dân số tiếp tục gia tăng, đạt cực đại 2050 nhưng khi đó chúng ta có cơ cấu dân số rất hợp lý, đảm bảo hài hòa giữa các độ tuổi khác nhau. Hiện nay tháp dân số Việt Nam hiện nay có hình trụ và được coi rất đẹp, có sự cân đối hài hòa giữa các lứa tuổi khác nhau. Nhiều nước trên thế giới mong muốn có được tháp dân số như thế này.
Vậy mức sinh thấp hợp lý là bao nhiêu? Hiện TFR của Việt Nam đang ở khoảng 2 con, ngành Dân số đã đề xuất với Chính phủ TFR hợp lý để từ nay đến năm 2020 duy trì khoảng 1,8 – 2 con. Các chuyên gia về lĩnh vực dân số đã khuyến cáo: Chúng ta không để TFR tăng lên nhưng cũng không để rơi xuống quá thấp. Kinh nghiệm các nước cho thấy khi TFR rơi xuống khoảng 1,3 - 1,4 con sẽ rất khó có thể nâng lên được. Hiện nay, các tỉnh miền Đông và Tây Nam bộ, TFR còn khoảng dưới 1,8 con, đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh đã rất thấp, trong mấy năm qua lại giảm rất nhanh: Từ 1,45 con (1/4/2009) đã xuống còn 1,3 con (1/4/2011) và năm 2012 được dân gian coi là “năm đẹp” để sinh con thì TFR cũng chỉ tăng lên một chút là 1,33 con. Chính vì thế, Tổng cục DS-KHHGĐ đã khuyến nghị, mỗi phụ nữ ở TP HCM hãy nên đẻ 2 con nhưng lưu ý là không sinh con thứ 3.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là Việt Nam có bức tranh dân số rất khác nhau giữa các vùng miền và các tỉnh. Các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Bộ mức sinh thấp, trong khi các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và ở miền Trung mức sinh còn khá cao (trên dưới 3 con). Muốn giảm được từ 3 con xuống 1,8 con là con đường dài, gian nan và vất vả. Chính vì vậy, việc duy trì mức sinh thấp hợp lý là giải pháp hữu hiệu nhất trong giai đoạn hiện nay, giúp chúng ta có được quy mô và cơ cấu dân số hài hòa nhất, vì sự phát triển bền vững của đất nước.
Trong bản cáo cáo các biện pháp, chính sách duy trì mức sinh thấp hợp lý trình Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế đã đề xuất mục tiêu và chỉ tiêu để triển khai việc duy trì mức sinh thấp hợp lý từ năm 2012 đến 2020, phù hợp với Chiến lược DS&SKSS giai đoạn 2011-2020.
Theo đó, mục tiêu tổng quát là Chủ động duy trì mức sinh thấp, hợp lý để quy mô dân số sớm ổn định trong khoảng 115-120 triệu người vào giữa thế kỷ 21, góp phần vào sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước và các địa phương.
Các chỉ tiêu cụ thể được đề ra là:
- Tổng tỷ suất sinh (TFR) giảm từ 2,0 con/phụ nữ năm 2010 xuống 1,9 con/phụ nữ vào năm 2020.
- Quy mô dân số không vượt quá 92 triệu người vào năm 2015 và không vượt quá 98 triệu người vào năm 2020.
- Tỷ lệ gia tăng dân số khoảng 1% mỗi năm trong giai đoạn 2015-2020.
- Tỷ lệ sử dụng BPTT tăng từ 78,2% năm 2010 lên 80% mỗi năm trong giai đoạn 2015-2020, trong đó tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại tăng từ 67,5% năm 2010 lên 71% mỗi năm trong giai đoạn 2015-2020.
- Tỷ lệ phá thai giảm xuống 25/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2020
- Khống chế và giảm tốc độ tăng tỷ lệ vô sinh để tỷ lệ này không vượt quá 10% vào năm 2020.
Hà Thư

Tầm quan trọng của việc chuyên nghiệp hóa nghề chăm sóc
Dân số và phát triển - 20 giờ trướcGĐXH - Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số nhanh chóng, việc chuyên nghiệp hóa nghề chăm sóc được xác định là một trong những giải pháp chiến lược để bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi, đồng thời thúc đẩy bình đẳng giới và phát triển kinh tế xã hội bền vững.

Ung thư vú có di truyền không?
Dân số và phát triển - 22 giờ trướcTheo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất và gây tử vong cao nhất trong các loại ung thư ở nữ giới. Tại Việt Nam, ung thư vú cũng là loại ung thư có tỷ lệ mắc cao nhất. Vậy ung thư vú có di truyền không và làm cách nào để tầm soát ở giai đoạn sớm?

Cực hiếm: Người phụ nữ mang 4 thai tự nhiên
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH - Theo các bác sĩ, đây là một tình huống đặc biệt hiếm trong sản khoa, với tỷ lệ gặp chỉ khoảng 1/700.000 – 1/800.000 ca mang thai tự nhiên.

Bất ngờ với lý do người vợ trẻ ôm tờ xét nghiệm ADN khóc nức nở
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcSau 4 giờ dài dằng dặc chờ đợi kết quả ADN nhưng mọi chuyện không thuận theo mong mỏi, người phụ nữ trẻ ôm tờ kết quả xét nghiệm, gục đầu khóc nức nở.

Bé gái ở Phú Thọ chào đời với cân nặng 5kg
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH - Sau sinh, trẻ hồng hào, khóc to, phản xạ tốt. Được biết, trong suốt thai kỳ, sản phụ tăng 20kg và hoàn toàn khỏe mạnh.

5 bí quyết chăm sóc ngực mẹ sau sinh giúp tránh tắc tia sữa, nứt núm vú
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcTắc tia sữa, nứt núm vú là tình trạng phổ biến, gây đau đớn và ảnh hưởng đến quá trình nuôi con bằng sữa mẹ. Tuy nhiên, chỉ với vài thói quen chăm sóc ngực đơn giản mỗi ngày, mẹ hoàn toàn có thể phòng tránh hiệu quả.

Tiếng khóc của trẻ báo hiệu bệnh lý, cần cho trẻ kiểm tra sớm
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcGĐXH - Theo nghiên cứu, trẻ sơ sinh có thể phát ra từ 5 đến 7 loại tiếng khóc khác nhau, tương ứng với các nhu cầu và cảm xúc khác nhau...

Mẹ bị viêm tuyến vú có cho con bú được không?
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcViêm tuyến vú không những gây khó khăn, đau đớn khi cho con bú mà còn dễ có nguy cơ nhiễm trùng áp-xe vú nếu không được điều trị kịp thời. Vậy mẹ có nên cho con bú khi bị viêm tuyến vú không?

10 dấu hiệu của ung thư tuyến tiền liệt có thể nhầm lẫn với bệnh lý khác
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcUng thư tuyến tiền liệt thường xuất hiện với những triệu chứng khó nhận biết, dễ bị nhầm lẫn với các vấn đề sức khỏe ít nghiêm trọng hơn. Đừng bỏ qua những 10 dấu hiệu dưới đây, bởi việc phát hiện sớm có ý nghĩa quyết định trong điều trị.

Cholesterol cao có thể gây ra rối loạn cương dương?
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcNồng độ cholesterol cao không chỉ đe dọa tim mạch mà còn là thủ phạm thầm lặng gây rối loạn cương dương. Tìm hiểu mối liên hệ mật thiết này để bảo vệ sức khỏe nam giới toàn diện hơn.

Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.