Hà Nội
23°C / 22-25°C

Để quy mô, cơ cấu dân số hài hòa nhất

Thứ hai, 21:00 29/12/2014 | Dân số và phát triển

GiadinhNet - Việt Nam đang thực hiện Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản (DS&SKSS) giai đoạn 2011 - 2020 với mục tiêu là chủ động điều chỉnh tốc độ gia tăng dân số và duy trì mức sinh thấp hợp lý, tập trung nâng cao chất lượng dân số để có được quy mô và cơ cấu dân số hài hòa nhất, vì sự phát triển bền vững của đất nước…

 

Chăm sóc trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương.  ẢNH: DƯƠNG NGỌC
Chăm sóc trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương. ẢNH: DƯƠNG NGỌC

 

Không chỉ tập trung vào công tác giảm sinh

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần XI và Chiến lược DS-SKSS 2011-2020 đã đề ra: Đến 2015, quy mô dân số Việt Nam không vượt quá 93 triệu người. Trước đó, từ năm 1999 trở về trước, mỗi năm dân số nước ta tăng khoảng từ 1 triệu – 1,3 triệu người. Với những thành công của công tác DS-KHHGĐ, từ năm 1999 - 2009, trung bình mỗi năm dân số Việt Nam chỉ tăng 952.000 người. Từ năm 2009 đến nay, mỗi năm Việt Nam tăng khoảng 900.000 người. Điều tra biến động dân số 1/4/2012, quy mô dân số Việt Nam là 88,78 triệu người. Nếu mỗi năm tăng gần 1 triệu người thì đến năm 2015 ước tính Việt Nam có quy mô dân số không vượt quá 92 triệu người. Như vậy, chỉ tiêu về quy mô dân số đến năm 2015 sẽ khoảng dưới 93 triệu, đạt được chỉ tiêu đề ra.

Trong những năm qua, tổng tỷ suất sinh (TFR - số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ) liên tục giảm: từ 6,39 con năm 1960 xuống còn 2,09 con năm 2006 (dưới mức sinh thay thế, được các nhà khoa học tính toán là 2,1 con - số con đủ thay thế cho người mẹ trong suốt cuộc đời họ). Liên tục từ đó đến nay, Việt Nam luôn ở ngưỡng đạt mức sinh thay thế. Mô hình “sinh sớm, sinh nhiều con” từ nhiều thập kỷ trước năm 1993 đã chuyển sang mô hình “sinh muộn, sinh ít con” kể từ khi đạt mức sinh thay thế vào năm 2006. Xu hướng phụ nữ kết hôn muộn sau tuổi 22, sinh con trong độ tuổi từ 25 đến 34 tuổi và chỉ sinh 1 hoặc 2 con ngày càng phổ biến và tăng dần qua từng giai đoạn nhằm thích ứng với xã hội ngày càng hiện đại.

Hiện nay Việt Nam đã đạt mức sinh thay thế. Có câu hỏi đặt ra rằng, vậy có cần thiết phải tiếp tục duy trì công tác giảm sinh như thời gian qua? Đảng và Nhà nước ta đã nhìn trước vấn đề này nên Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra chỉ tiêu đến 2015 tỷ lệ tăng dân số của Việt Nam ở mức 1%. Như vậy, Nghị quyết ĐH Đảng lần thứ XI đề ra chỉ tiêu mỗi năm phấn đấu giảm tỷ lệ tăng dân số khoảng 0,1%o. Chỉ tiêu này là rất thấp so với trước đây. Năm 1999 - 2000, tỷ suất sinh thô giảm 0,7%o, năm 2004 - 2005 giảm 0,6%o, năm 2010 - 2011 giảm 0,5%o. Chỉ tiêu phấn đấu từ năm 2011- 2015, mỗi năm chỉ giảm tỷ suất sinh thô là 0,1%o. Điều đó cho thấy, Đại hội Đảng đã đưa ra quyết sách trong thời gian tới: Việc giảm tỷ lệ sinh không lớn như trước nữa.

Chiến lược DS&SKSS Việt Nam giai đoạn 2011-2020 mà Thủ tướng phê duyệt đã nêu rõ 5 lĩnh vực ưu tiên trong công tác dân số: Giải quyết đồng bộ các vấn đề dân số, sức khoẻ sinh sản, tập trung nâng cao chất lượng dân số, cải thiện sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, phát huy lợi thế cơ cấu “dân số vàng”, chủ động điều chỉnh tốc độ tăng dân số và kiểm soát tỷ số giới tính khi sinh” và đặt ra mục tiêu “duy trì mức sinh thấp hợp lý”. Theo đó, tổng tỷ suất sinh là 1,9 con vào năm 2015 và 1,8 con vào năm 2020.

Chủ động điều chỉnh và duy trì mức sinh thấp hợp lý

Chủ trương đường lối của Đảng đã có, Chính phủ đã ban hành Chiến lược, vấn đề đặt ra là chúng ta sẽ thực hiện việc này như thế nào trong thời gian tới.

Tuy đã đạt mức sinh thay thế năm 2006 và duy trì đến năm 2011, nhưng trong thời gian tới, mức sinh còn biến động khó lường: Hoặc là tăng trở lại, hoặc là tiếp tục giảm xuống mức rất thấp như một số nước đã gặp phải. Cả hai giả định trên đều gây hệ lụy không tốt đến nhân khẩu học và tác động xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội cho hiện tại và tương lai. Mặc khác, thực trạng và xu hướng tiếp tục chênh lệch mức sinh giữa các địa phương sẽ gây ra sự bất lợi về nhân khẩu học trong tương lai và càng làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các địa phương trong cả nước.

Để khắc phục tình trạng nêu trên, Bộ Y tế đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp, chính sách để duy trì mức sinh thấp hợp lý nhằm bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững kinh tế- xã hội của cả nước và giữa các địa phương. Dựa vào kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 2009, Tổng cục Thống kê đã đưa ra 3 phương án: Phương án 1- mức sinh cao: Để cho tốc độ tăng dân số cao, không điều chỉnh thì Việt Nam sẽ đạt dân số cực đại vào năm 2060 với quy mô dân số khoảng 120 triệu người. Phương án 2 – mức sinh thấp: Dân số Việt Nam sẽ đạt 100 triệu vào năm 2040. Phương án 3 - mức sinh thấp hợp lý: Việt Nam sẽ đạt quy mô dân số cực đại vào năm 2050 với khoảng 110 triệu dân.

Nếu chỉ nhìn vào quy mô thì chúng ta thấy rằng nên chọn phương án mức sinh thấp vì như vậy quy mô dân số ít nhất, sớm đạt cực đại nhất. Tuy nhiên trong tương lai, cơ cấu dân số sẽ không hợp lý, tình trạng tháp dân số có hình tam giác lộn ngược: tỷ lệ người cao tuổi lớn, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động và trẻ em ít đi. Công tác dân số không phải là chỉ đáp ứng những nhu cầu hiện nay, của thế hệ hiện nay; chúng ta cần nhìn xa hơn, dài hạn hơn mang tính chiến lược hơn.

Nếu chọn phương án mức sinh cao thì dân số nước ta sẽ quá đông, mật độ sẽ quá cao và sẽ khó mà phát triển kinh tế xã hội được. Tổng cục DS-KHHGĐ đã đề xuất phương án 3 – mức sinh thấp hợp lý: Chấp nhận quy mô dân số tiếp tục gia tăng, đạt cực đại 2050 nhưng khi đó chúng ta có cơ cấu dân số rất hợp lý, đảm bảo hài hòa giữa các độ tuổi khác nhau. Hiện nay tháp dân số Việt Nam hiện nay có hình trụ và được coi rất đẹp, có sự cân đối hài hòa giữa các lứa tuổi khác nhau. Nhiều nước trên thế giới mong muốn có được tháp dân số như thế này.

Vậy mức sinh thấp hợp lý là bao nhiêu? Hiện TFR của Việt Nam đang ở khoảng 2 con, ngành Dân số đã đề xuất với Chính phủ TFR hợp lý để từ nay đến năm 2020 duy trì khoảng 1,8 – 2 con. Các chuyên gia về lĩnh vực dân số đã khuyến cáo: Chúng ta không để TFR tăng lên nhưng cũng không để rơi xuống quá thấp. Kinh nghiệm các nước cho thấy khi TFR rơi xuống khoảng 1,3 - 1,4 con sẽ rất khó có thể nâng lên được. Hiện nay, các tỉnh miền Đông và Tây Nam bộ, TFR còn khoảng dưới 1,8 con, đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh đã rất thấp, trong mấy năm qua lại giảm rất nhanh: Từ 1,45 con (1/4/2009) đã xuống còn 1,3 con (1/4/2011) và năm 2012 được dân gian coi là “năm đẹp” để sinh con thì TFR cũng chỉ tăng lên một chút là 1,33 con. Chính vì thế, Tổng cục DS-KHHGĐ đã khuyến nghị, mỗi phụ nữ ở TP HCM hãy nên đẻ 2 con nhưng lưu ý là không sinh con thứ 3.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là Việt Nam có bức tranh dân số rất khác nhau giữa các vùng miền và các tỉnh. Các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Bộ mức sinh thấp, trong khi các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và ở miền Trung mức sinh còn khá cao (trên dưới 3 con). Muốn giảm được từ 3 con xuống 1,8 con là con đường dài, gian nan và vất vả. Chính vì vậy, việc duy trì mức sinh thấp hợp lý là giải pháp hữu hiệu nhất trong giai đoạn hiện nay, giúp chúng ta có được quy mô và cơ cấu dân số hài hòa nhất, vì sự phát triển bền vững của đất nước.

 

Trong bản cáo cáo các biện pháp, chính sách duy trì mức sinh thấp hợp lý trình Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế đã đề xuất mục tiêu và chỉ tiêu để triển khai việc duy trì mức sinh thấp hợp lý từ năm 2012 đến 2020, phù hợp với Chiến lược DS&SKSS giai đoạn 2011-2020.

Theo đó, mục tiêu tổng quát là Chủ động duy trì mức sinh thấp, hợp lý để quy mô dân số sớm ổn định trong khoảng 115-120 triệu người vào giữa thế kỷ 21, góp phần vào sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước và các địa phương.

Các chỉ tiêu cụ thể được đề ra là:

- Tổng tỷ suất sinh (TFR) giảm từ 2,0 con/phụ nữ năm 2010 xuống 1,9 con/phụ nữ vào năm 2020.

- Quy mô dân số không vượt quá 92 triệu người vào năm 2015 và không vượt quá 98 triệu người vào năm 2020.

- Tỷ lệ gia tăng dân số khoảng 1% mỗi năm trong giai đoạn 2015-2020.

- Tỷ lệ sử dụng BPTT tăng từ 78,2% năm 2010 lên 80% mỗi năm trong giai đoạn 2015-2020, trong đó tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại tăng từ 67,5% năm 2010 lên 71%  mỗi năm trong giai đoạn 2015-2020.

- Tỷ lệ phá thai giảm xuống 25/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2020

- Khống chế và giảm tốc độ tăng tỷ lệ vô sinh để tỷ lệ này không vượt quá 10% vào năm 2020.

Hà Thư

 

Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn
3 cách phòng ngừa viêm đường tiết niệu ở phụ nữ mang thai

3 cách phòng ngừa viêm đường tiết niệu ở phụ nữ mang thai

Dân số và phát triển - 23 phút trước

Nhận biết các yếu tố nguy cơ và thực hiện các bước phòng ngừa có thể giúp phụ nữ mang thai giảm thiểu nguy cơ mắc viêm đường tiết niệu, đảm bảo sức khỏe trong suốt thai kỳ.

Estrogen có liên quan gì đến ung thư vú?

Estrogen có liên quan gì đến ung thư vú?

Dân số và phát triển - 3 giờ trước

Có nhiều yếu tố nguy cơ gây ung thư vú trong đó có ảnh hưởng của hormone nữ estrogen. Mối liên hệ này là gì và những phụ nữ nào có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi yếu tố này?

Phát hiện sớm ung thư vú nhờ ứng dụng AI trong chụp nhũ ảnh tầm soát

Phát hiện sớm ung thư vú nhờ ứng dụng AI trong chụp nhũ ảnh tầm soát

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

Ung thư vú càng được phát hiện sớm thì tỷ lệ điều trị thành công càng cao. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh AI có thể xác định những phụ nữ có nguy cơ cao mắc ung thư vú giữa các lần chụp nhũ ảnh tầm soát định kỳ.

Đừng bỏ lỡ cơ hội sống sót với điều trị ung thư vú giai đoạn sớm

Đừng bỏ lỡ cơ hội sống sót với điều trị ung thư vú giai đoạn sớm

Dân số và phát triển - 3 ngày trước

Việc phát hiện và điều trị ung thư vú ngay từ giai đoạn đầu được xem là 'chìa khóa vàng' giúp bệnh nhân có cơ hội đạt được tỷ lệ sống sót cao nhất, giảm thiểu rủi ro tái phát và một tương lai khỏe mạnh.

Tưởng vợ hiếm muộn, đi khám phát hiện... chồng vô sinh

Tưởng vợ hiếm muộn, đi khám phát hiện... chồng vô sinh

Dân số và phát triển - 3 ngày trước

GĐXH - Hiếm muộn sau 4 năm cưới nhau, anh Hoàng chưa từng nghĩ mình vô sinh do dị tật bẩm sinh, phải điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để được làm bố.

Hy Hữu: Thai phụ 27 tuổi phát hiện bệnh lý hiếm gặp trong lần làm xét nghiệm không xâm lấn (NIPT)

Hy Hữu: Thai phụ 27 tuổi phát hiện bệnh lý hiếm gặp trong lần làm xét nghiệm không xâm lấn (NIPT)

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

GĐXH - Kết quả NIPT cho thấy bất thường về số lượng nhiễm sắc thể giới tính, với nguy cơ cao gây hội chứng Monosomy X (XO) - một dạng bệnh lý di truyền hiếm gặp.

Nâng cao sức khỏe người cao tuổi thông qua áp dụng mô hình Tsuyama của Nhật Bản

Nâng cao sức khỏe người cao tuổi thông qua áp dụng mô hình Tsuyama của Nhật Bản

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

GĐXH - Sau 3 năm triển khai tại địa bàn An Lão, Hải Phòng, Dự án "Hỗ trợ dự phòng chăm sóc sức khỏe người cao tuổi ứng phó với vấn đề già hóa dân số áp dụng mô hình Tsuyama" được JICA và Bộ Y tế đánh giá cao, có khả năng nhân rộng ra các địa phương khác trong thời gian tới.

Đau bụng dưới kéo dài, bé gái 9 tuổi được phát hiện có u nang buồng trứng

Đau bụng dưới kéo dài, bé gái 9 tuổi được phát hiện có u nang buồng trứng

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

GĐXH - Khi tiếp nhận, các bác sĩ ghi nhận bệnh nhi chưa dậy thì, đây là yếu tố quan trọng giúp loại trừ các nguyên nhân liên quan đến nội tiết hoặc dậy thì sớm.

Giữa mưa lũ sạt lở, 2 y sĩ băng rừng 5km cứu mẹ con sản phụ ở vùng cao

Giữa mưa lũ sạt lở, 2 y sĩ băng rừng 5km cứu mẹ con sản phụ ở vùng cao

Dân số và phát triển - 5 ngày trước

Giữa mưa lũ sạt lở, hai y sĩ ở xã miền núi của Đà Nẵng đã vượt hơn 5km đường rừng đến nhà dân đỡ đẻ, giúp mẹ con sản phụ an toàn giữa thiên tai.

Chạy đua cứu mẹ con thai phụ mang song thai khác vị trí hiếm gặp

Chạy đua cứu mẹ con thai phụ mang song thai khác vị trí hiếm gặp

Dân số và phát triển - 5 ngày trước

GĐXH - Tại bệnh viện, kết quả siêu âm chuyên sâu xác định song thai khác vị trí – một thai trong tử cung, một thai ngoài tử cung đã vỡ và gây chảy máu ổ bụng.

Top