Dị tật bẩm sinh - Một vấn đề của chất lượng dân số
Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII, đặc biệt Nghị quyết 37/CP của Chính phủ đã nhấn mạnh "Con người là nguồn tài nguyên quý báu nhất quyết định sự phát triển của đất nước trong đó sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người, của toàn xã hội, cũng là một trong những niềm hạnh phúc lớn nhất của mỗi con người, mỗi gia đình".
Vì vậy, chất lượng dân số là một thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống ở nước ta. Bên cạnh việc duy trì xu thế giảm sinh vững chắc, chúng ta phải tập trung giải quyết đồng bộ các vấn đề có liên quan đến chất lượng dân số nhằm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Chiến lược dân số Việt Nam 2001-2010 đã đề ra 7 chương trình hành động trong đó nhấn mạnh đến Chương trình Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến chất lượng dân số 2001-2010. Chất lượng dân số còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Một trong những vấn đề liên quan đến chất lượng dân số là qui mô người tàn tật có xu hướng ngày càng gia tăng do nhiều nguyên nhân khác nhau.Theo số liệu của Uỷ ban Kinh tế và xã hội châu á- Thái Bình Dương (ESCAP) 2/2002, trên thế giới hiện nay có khoảng 600 triệu người tàn tật và 2/3 trong số đó sống tại châu á- Thái Bình Dương, trong đó Việt Nam có gần 5 triệu người tàn tật. Tính theo số hộ gia đình thì cứ 100 hộ, 8 hộ có người tàn tật. Nguyên nhân tàn tật chủ yếu là do bẩm sinh (34,15%), bệnh tật (35,75%), hậu quả chiến tranh (19,07%), tai nạn giao thông (5,53%), tai nạn lao động và các nguyên nhân khác (5,50%)1. Bài viết này đề cập một số khía cạnh dị tật bẩm sinh liên quan đến chất lượng dân số.
Vài nét về tình hình DTBS
Dị tật bẩm sinh (DTBS) là một trong những bất thường hay gặp ở thai nhi và trẻ sơ sinh, là một trong những nguyên nhân chính gây nên tử vong và bệnh tật của trẻ trong những năm đầu của cuộc sống. Các DTBS tuỳ theo mức độ nặng nhẹ sẽ ảnh hưởng đến khả năng sống , khả năng sinh hoạt bình thường, tuổi thọ và sự hoà nhập cộng đồng của trẻ bị dị tật. Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, tần suất DTBS chiếm 3- 4% tổng số trẻ được sinh ra bao gồm cả trẻ sống và chết lúc sinh. Theo kết quả một nghiên cứu của Bệnh viện Từ Dũ năm 2002, ở Việt Nam có 3% thai nhi bị dị tật bẩm sinh.
Từ những năm 70 ở nước ta, một số tác giả đã công bố những nghiên cứu đầu tiên về DTBS. Mặc dù chưa nhiều nhưng kết quả thu được đã cho thấy một phần về tình hình DTBS ở các vùng khác nhau. Tỷ lệ DTBS ở trẻ sơ sinh có sự khác biệt rõ rệt theo từng vùng.
Tình hình DTBS trong các bệnh viện nhi cũng đã được một số tác giả nghiên cứu. Theo thống kê năm 2000-2001, số trẻ bị các DTBS vào Viện Nhi quốc gia chiếm 12,4% số trẻ nhập viện và chiếm 10,5% số trẻ bị chết. Những đứa trẻ sinh ra không có não, thoát vị não, não úng thuỷ, bại não, dị tật cơ xương...chết ngay khi chào đời không phải hiếm, còn những đứa trẻ bị sứt môi, hở hàm ếch, dị tật tứ chi, dị tật bộ phận sinh dục...dù sống được nhưng nỗi khổ vẫn đeo đẳng bản thân đứa trẻ, gia đình và xã hội suốt đời. Theo TS Phan Thị Hoan (Bộ môn Y sinh học-di truyền, ĐH Y Hà Nội),trẻ bị khuyết tật ngoài nguyên nhân do rối loạn vật chất di truyền, người mẹ còn có thể do bị ảnh hưởng bởi một số tác nhân độc hại trong môi trường (nhiễm xạ, các chất hoá học độc hại, bị cảm cúm...).
Nguyên nhân của DTBS
Việc xác định nguyên nhân gây DTBS đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Cho đến nay các nhà khoa học vẫn chưa xác định được nguyên nhân của nhiều trường hợp DTBS. Ước tính có khoảng 60-70% DTBS không rõ nguyên nhân. Mặc dù vậy, có thể khẳng định rằng bất kỳ DTBS nào cũng có nguyên nhân hoặc là do yếu tố môi trường, hoặc là do yếu tố di truyền. Trong trường hợp có kết hợp nguyên nhân môi trường với yếu tố di truyền thì được gọi là bệnh di truyền đa yếu tố.
Nguyên nhân di truyền
Nhiều dị tật bẩm sinh hay bệnh tật của con cái thường có thể là do di truyền của bố mẹ chúng để lại. Qua nghiên cứu di truyền cho thấy một số lượng lớn bệnh tật và tử vong ở người là hậu quả trực tiếp hay gián tiếp của sự bất thường về di truyền. Các rối loạn di truyền được xếp dưới 4 hình thức sau đây:
- Bất thường về nhiễm sắc thể
- Rối loạn gen
- Rối loạn nhiều yếu tố
- Các rối loạn về cơ thể
Trong công trình nghiên cứu của mình, PGS, TS Nguyễn Thị Phương (bộ môn Nhi, Đại học Y Hà Nội) cho biết trong số các trường hợp DTBS có khoảng 5% do đột biến gen di truyền, 5% do bất thường của nhiễm sắc thể, 90% do đa yếu tố.
Hội chứng Down là hội chứng thường gặp nhất trong các bất thường về nhiễm sắc thể và nó có tần suất xuất hiện xấp xỉ 1/700 trẻ sơ sinh. Nó thường hay gặp hơn ở con cái các bà mẹ lớn tuổi. Nhiều khu vực trên thế giới chương trình bảo vệ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em đã giới thiệu về cách phát hiện thai nhi bị mắc hội chứng Down trong thời kỳ mang thai của người mẹ. Đa số các bệnh nhân mắc hội chứng Down là do có thêm 1 nhiễm sắc thể thứ 21 (có 3 nhiễm sắc thể thứ 21). Sở dĩ có thêm 3 NST thứ 21 là do có sự sai lệch trong thời kỳ phân chia giảm nhiễm của trứng người mẹ hay tinh trùng của người cha. Ngoài ra còn nhiều hội chứng NST khác hiếm gặp cũng là nguyên nhân sai lệch trong thời kỳ phân chia giảm nhiễm của trứng và tinh trùng như: Hội chứng Edward, Patau, Klinefelter, Turner. Mỗi hội chứng đều có tần suất xuất hiện, đặc điểm lâm sàng khác nhau nhưng đều ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng của đứa trẻ.
Nguyên nhân môi trường
Các yếu tố môi trường có thể gây ra các DTBS qua tác động và làm thay đổi quá trình phát triển bình thường của phôi, được gọi là các yếu tố gây dị dạng. Tác động gây dị dạng của các yếu tố môi trường phụ thuộc vào bản chất của yếu tố đó, liều lượng và thời điểm mà nó tác động. Các tác nhân gây ra DTBS có thể là thuốc và hoá chất, các tác nhân gây viêm nhiễm, các tác nhân vật lý và bệnh của người mẹ. Trẻ bị khuyết tật ngoài nguyên nhân rối loạn di truyền, còn có thể do người mẹ bị ảnh hưởng của một số tác nhân độc hại trong môi trường (nhiễm xạ, các chất hoá học độc hại...). Các chất độc hại có thể là những tác nhân vật lý như nhiệt độ qúa cao hoặc quá thấp gây say nóng, nhiễm lạnh ở bà mẹ), các loại tia cực tím hoặc phóng xạ,có thể là những tác nhân hoá học như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và ngay cả nhiều thứ thuốc chữa bệnh cho bà mẹ cũng có thể tác động xấu đến thai làm nó suy yếu đi và nguy hiểm hơn có thể gây dị tật hoặc làm thai bị chết. Cũng có thể xếp vào loại độc hại cho thai khi bà mẹ hút thuốc lào,thuốc lá, nghiện ma tuý, nghiện rượu. Những thứ đó đều làm cho thai suy dinh dưỡng, chậm phát triển về trí tuệ sau này. Các loại vi trùng, virut, ký sinh trùng và nấm gây bệnh có sẵn trong môi trường sống, có thể có cả trên cơ thể bà mẹ từ trước khi có thai nhưng đến giai đoạn thai nghén, sức đề kháng của cơ thể giảm sút khiến các mầm bệnh đó có cơ hội phát triển và gây bệnh cho bà mẹ. Những mầm bệnh ấy có thể theo máu mẹ qua rau vào thai hoặc có thể lan theo đường sinh dục đi lên gây nhiễm trùng rau, nhiễm trùng ối.
Một số yếu tố nguy cơ sinh con DTBS
Một số yếu tố về đặc trưng nhân khẩu
Giới tính
Theo kết quả một nghiên cứu của GS, TS Nguyễn Đình Hối (Đại học Y dược Tp Hồ Chí Minh), trong giai đoạn 1996-2000, tỷ lệ trẻ có DTBS sau sinh tại bệnh viện phụ sản Từ Dũ là 1,08%. Tỷ lệ này dao động không nhiều qua các năm, riêng trong năm 2000 tỷ lệ trẻ DTBS cao nhất , đạt 1,38% tổng số trẻ sinh ra tại bệnh viện. Trong 517 trường hợp DTBS năm 2000 có 284 trẻ em nam, chiếm 54,93%; 219 trẻ em nữ, chiếm 42,36%; không xác định được giới tính, chiếm 2,71%. Theo một báo cáo khoa học của TS Phan Thị Hoan (Bộ môn Y sinh học- di truyền, Đại học Y Hà Nội), trong số 18834 trẻ sơ sinh tại bệnh viện Phụ Sản Hà Nội, tỷ số giới tính (nam/nữ) là 1,09; trong số 64 trẻ DTBS có tỷ số giới tính là 1,06. Trong 36.978 người được điều tra tại các vùng dân cư đồng bằng sông Hồng, tỷ số giới tính là 0,98 nghĩa là số nam và nữ gần như tương đương nhau. Trong khi đó, số người DTBS có tỷ số giới tính cao hơn (1,21). Đặc biệt ở nhóm người DTBS loại đa dị tật có tỷ lệ giới cao hơn rất nhiều (1,54).
Như vậy, nhìn chung DTBS ở nam nhiều hơn nữ và tỷ lệ trẻ không xác định được giới tính khá cao.
Tuổi của người mẹ sinh con DTBS tại thời điểm sinh
Tuổi của mẹ là một trong những yếu tố nguy cơ cao trong sinh con bị DTBS. Trong nghiên cứu về một số khía cạnh di truyền liên quan đến chất lượng dân số của GS, TS Nguyễn Đình Hối (2001), tuổi trung bình của những bà mẹ sinh con DTBS cao hơn 2,4 tuổi so với những bà mẹ sinh con bình thường. Tuổi trung bình của các bà mẹ sinh con bị hội chứng Down cao hơn 8,3 tuổi so với những bà mẹ sinh con bình thường. Tương tự, kết quả nghiên cứu "một số yếu tố nguy cơ sinh con DTBS ở một số nhóm dân cư miền Bắc Việt Nam" cho thấy tuổi mẹ sinh con hội chứng Down cao hơn tuổi trung bình của mẹ sinh con bình thường. Nhưng nhóm mẹ sinh con DTBS loại khe hở môi, vòm miệng và dị tật hậu môn lại có tuổi trung bình thấp hơn so với tuổi trung bình của những bà mẹ sinh con bình thường. Như vậy, tuổi bà mẹ lúc mang thai và sinh con có liên quan nhất định đến sự phát triển bình thường và bất thường của phôi thai. Tuổi mẹ càng lớn thì nguy cơ sinh con dị dạng, đặc biệt là con có hội chứng Down càng cao.
Một số yếu tố về đặc trưng xã hội
DTBS không chỉ phụ thuộc vào đặc trưng nhân khẩu của đứa con và bố mẹ mà còn phụ thuộc vào những đặc trưng xã hội của họ như nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, quy mô gia đình và mức sống. Kết quả thống kê tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội cho thấy số bố mẹ sống ở nông thôn có tỷ lệ sinh con DTBS cao hơn các trường hợp bố mẹ sống ở thành thị. GS. TS Nguyễn Đình Hối khi nghiên cứu 33 hộ có con DTBS và 70 hộ không có con DTBS tại phường Bửu Hoà, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai cho thấy ở nhóm hộ có con DTBS, tỷ lệ cha và mẹ không biết đọc, biết viết cao hơn so với nhóm hộ không có con DTBS. Số con trung bình ở nhóm hộ có con DTBS nhiều hơn nhóm hộ không có con DTBS. Tỷ lệ nghèo đói ở nhóm hộ gia đình có con DTBS cao hơn so với nhóm không có con DTBS.
Một số yếu tố khác liên quan đến DTBS
Liên quan ảnh hưởng đến dị tật bẩm sinh còn có một số yếu tố khác như gia đình có con và có người bị DTBS, người mẹ mắc bệnh mãn tính, hút thuốc lá, nghiện rượu...Theo nghiên cứu của GS. TS Nguyễn Đình Hối, không có trường hợp nào có con trước đó bị DTBS và có người trong gia đình bị DTBS ở nhóm hộ không có con DTBS. Nhưng đối với nhóm hộ có con DTBS, tỷ lệ có con bị DTBS trước đó là 6,1% và 3% là có người trong gia đình bị DTBS. Tiền sử mắc bệnh mãn tính của người mẹ và việc sinh con DTBS liên quan với nhau. ở nhóm hộ không có con DTBS, không có trường hợp người mẹ nào mắc bệnh mãn tính và người cha chỉ có 1,4%. Ngược lại, ở nhóm hộ có con DTBS, người mẹ mắc bệnh mãn tính chiếm 15,1%, người cha là 6,1%. Tương tự như vậy, tỷ lệ người mẹ, người cha có hút thuốc và uống rượu ở nhóm hộ không có con DTBS thấp hơn rất nhiều ở nhóm hộ có con DTBS.
Tóm lại,qua các kết quả nghiên cứu đã có ở Việt nam cho thấy, qui mô DTBS ở trẻ em là tương đối lớn chiếm 2% tổng số trẻ em dưới 15 tuổi. Những yếu tố chính dẫn đến nguy cơ sinh con DTBS là:
· Tuổi của người mẹ lúc mang thai càng lớn thì khả năng sinh con bị DTBS càng cao.
· Tiền sử có con hoặc người trong gia đình bị DTBS
· Người mẹ hoặc bố bị bệnh mãn tính
· Người mẹ có nạo phá thai trước đó
· Người mẹ hoặc bố hút thuốc và nghiện rượu
· Trình độ học vấn của bố mẹ thấp
· Nghèo đói của hộ gia đình
Vấn đề ngăn ngừa phòng chống DTBS
DTBS ảnh hưởng rất lớn đến trạng thái tâm thần của trẻ ở ngay những năm đầu tiên của cuộc sống. Vì vậy, nếu biết trước được các dị tật thì các bác sĩ có thể hoạch định sớm được kế hoạch điều trị, do đó giảm được đáng kể tỷ lệ tử vong do chẩn đoán và điều trị muộn. Không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả ở những nước phát triển, việc phát hiện và điều trị sớm các bệnh di truyền luôn cần được đặt ra như một chiến lược quan trọng để duy trì và phát triển các thế hệ kế tục mạnh khoẻ và thông minh. Vì vậy, cần thiết phải tổ chức triển khai việc chẩn đoán trước sinh đồng bộ, từ thăm khám lâm sàng, siêu âm, xét nghiệm sinh hoá, di truyền tế bào và di truyền phân tử để phát hiện các bất thường thai nhi, thực hiện các tham vấn di truyền kịp thời, góp phần làm giảm thiểu tỷ lệ bệnh di truyền và DTBS.
4 loại viêm âm đạo thường gặp trong thai kỳ và cách xử lý
Dân số và phát triển - 8 giờ trướcViêm âm đạo có thể xảy ra trong thai kỳ và thường được điều trị bằng các biện pháp như thuốc kháng sinh hoặc kem chống nấm. Dưới đây là 4 loại nhiễm trùng âm đạo phổ biến khi mang thai cần lưu ý.
Quảng Ninh triển khai giải pháp đồng bộ, nâng cao chất lượng dân số
Dân số và phát triển - 23 giờ trướcGĐXH - Để hoàn thành các mục tiêu dân số trong năm 2025, Quảng Ninh đã triển khai nhiều giải pháp từ cấp tỉnh tới cơ sở; trong đó chú trọng công tác tuyên truyền về mất cân bằng giới tính, phổ biến pháp luật, giáo dục kỹ năng sống… Qua đó, nâng cao chất lượng dân số, thích ứng với già hóa dân số và phát triển bền vững trong những năm tiếp theo.
Thai phụ vỡ khối u thận nguy kịch may mắn được cứu sống
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH - Thai phụ nhập viện trong tình trạng đau bụng, chóng mặt, tụt huyết áp. Các bác sĩ phát hiện khối máu chảy xuất phát từ vị trí khối u 1/3 dưới thận trái bị vỡ, gây mất máu cấp.
Tháng hành động quốc gia về Dân số năm 2025 ở Quảng Ninh: Thực hiện hiệu quả chính sách dân số trong tình hình mới
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH - Hưởng ứng Tháng hành động quốc gia về Dân số và kỷ niệm Ngày Dân số Việt Nam (26/12), Trạm Y tế xã Đường Hoa (Quảng Ninh) tổ chức Hội nghị truyền thông về công tác dân số, qua đó góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và người dân trong việc thực hiện hiệu quả chính sách dân số trong tình hình mới.
Vi khuẩn 'sát thủ' sống 1 năm ở âm 20°C trong tủ lạnh, bỏ ngay cách bảo quản sai
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcNguy cơ nhiễm khuẩn từ thói quen bảo quản thực phẩm sai cách trong tủ lạnh đang khiến nhiều gia đình đối mặt rối loạn tiêu hóa, ngộ độc và các biến chứng nặng.
Đi tìm biện pháp tránh thai hiện đại phù hợp với nàng
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcViệc chọn đúng biện pháp tránh thai không chỉ giúp tránh được tình trạng mang thai ngoài ý muốn, mà còn đảm bảo sức khỏe cho các bạn nữ. Tuy nhiên, giữa vô vàn biện pháp tránh thai hiện đại, đâu sẽ là lựa chọn phù hợp với nàng? Hãy cùng tìm hiểu ngay tại bài viết bên dưới nhé!
Giáo sư Nhật chỉ mặt 10 món ăn người Việt “nghiện” mỗi ngày đang âm thầm "phá thận"
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGS Masahiro Kozuki, chuyên gia thận học hàng đầu Nhật Bản mới đây đã chia sẻ “danh sách đen” 10 thực phẩm gây hại thận mà nhiều người mê ăn hàng ngày.
Hà Nội phát động hưởng ứng Tháng hành động quốc gia về Dân số và kỷ niệm Ngày Dân số Việt Nam 26/12
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH - Sáng 10/12, Sở Y tế Hà Nội tổ chức Lễ phát động Tháng hành động quốc gia về Dân số và kỷ niệm Ngày Dân số Việt Nam (26/12), với chủ đề “Đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho phát triển bền vững”.
ĐBQH bấm nút thông qua Luật Dân số: Chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH - Bộ trưởng Đào Hồng Lan nhấn mạnh, dự án Luật Dân số đánh dấu sự thay đổi căn bản, chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển.
Loại thuốc phổ biến nếu dùng dài ngày có thể gây thiếu hụt dinh dưỡng và tăng nguy cơ loãng xương
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcThuốc ức chế bơm proton (PPI) được dùng rộng rãi để giảm ợ nóng và acid dạ dày. Tuy nhiên, việc lạm dụng kéo dài có thể dẫn đến thiếu vitamin B12, hạ magiê và tăng nguy cơ loãng xương, gãy xương – đặc biệt ở người cao tuổi.
Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.