Nâng cao hiểu biết về SKSS/KHHGĐ: Cần tăng cường các cơ hội tiếp cận thông tin cho giới trẻ
GiadinhNet - Nâng cao hiểu biết, kiến thức, thái độ, hành vi của vị thành niên/thanh niên (VTN/TN) về vấn đề sức khỏe sinh sản/kế hoạch hóa gia đình (SKSS/KHHGĐ); tăng cường khả năng cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ cho VTN/TN… là những nội dung chính tại Hội thảo tham vấn dự thảo Đề án Cải thiện tình trạng DS/SKSS-KHHGĐ cho VTN/TN giai đoạn 2016 - 2020 do Tổng cục DS-KHHGĐ (Bộ Y tế) tổ chức sáng 17/11 tại Hà Nội.
Tuổi dậy thì ngày càng sớm hơn
VTN/TN là nhóm dân số trong thời kỳ chuyển giao từ trẻ em lên người trưởng thành, do đó, đây là nhóm có nhiều thay đổi về tâm, sinh lý và hành vi, đòi hỏi gia đình, xã hội cần có sự quan tâm đặc biệt. Bà Astrid Bant, Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (UNFPA) cho biết: Hiện nay, tuổi dậy thì của trẻ ngày càng có xu hướng sớm hơn. Theo số liệu mới nhất được công bố tại Việt Nam, tuổi dậy thì ở nữ giới là khoảng 13, ở nam giới là 15 tuổi. Đây là vấn đề cần phải quan tâm hơn nữa.
Bà Astrid Bant nhấn mạnh: “Xác định tuổi dậy thì vào khi nào rất quan trọng và cần thiết trong việc tiếp cận cũng như cung cấp thông tin về chăm sóc SKSS sao cho phù hợp, đúng đối tượng và đúng thời điểm. Điều này giúp các chương trình cải thiện tình trạng DS/SKSS-KHHGĐ cho VTN/TN đem lại hiệu quả cao hơn”.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê: Năm 2014, cả nước có 11,4% trường hợp kết hôn ở tuổi VTN. Tỷ lệ này ở nông thôn cao gần gấp đôi so với thành thị (nông thôn: 13,6%; thành thị: 7,1%). Mặt khác, mặc dù Việt Nam đã đạt mức sinh thay thế hơn một thập kỷ và mô hình sinh của nước ta là mô hình sinh muộn (nhóm tuổi sinh cao nhất là 20 - 29 tuổi), nhưng mức sinh của nhóm vị thành niên (nhóm từ 15-19 tuổi) đang có xu hướng gia tăng.
ThS Lương Quang Đảng, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế - Thanh tra (Tổng cục DS-KHHGĐ) cho biết, trong những năm qua, Tổng cục DS-KHHGĐ đã triển khai khá hiệu quả một số mô hình, đề án can thiệp đối với VTN/TN như: Tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân; giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở vùng có đông đồng bào dân tộc sinh sống; truyền thông vận động lồng ghép cung cấp dịch vụ cho thanh niên ở các khu công nghiệp…
Tuy nhiên, nhìn chung hiểu biết về sức khỏe sinh sản của VTN/TN ở nước ta còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ VTN/TN trả lời đúng về thời điểm dễ có thai trong chu kỳ kinh nguyệt là rất thấp; tỷ lệ VTN/TN không lường trước được hậu quả của quan hệ tình dục trước hôn nhân là khá cao, lên tới 56%. Bên cạnh đó, khi được hỏi về hậu quả của kết hôn cận huyết thống sẽ dẫn tới hậu quả con cái dễ mắc các dị tật bẩm sinh có tới 22% VTN/TN vùng dân tộc không hề biết tới hệ lụy này….
Các hình thức truyền thông còn thiếu sự gắn kết
Phát biểu tại Hội thảo, bà Phan Thị Lê Mai (cán bộ của UNFPA) cho biết, qua cuộc khảo sát mô hình can thiệp thí điểm cung cấp thông tin và dịch vụ về sức khỏe sinh sản và phương tiện tránh thai cho thanh niên lao động nhập cư tại các khu công nghiệp được tiến hành trong 2 năm (2014 - 2015), nhóm nghiên cứu đã nhận thấy, sự phát triển kinh tế là nguyên nhân thúc đẩy luồng di cư trong nước. Trong đó, đa số lao động nhập cư ở độ tuổi thanh niên với đặc thù, các kiến thức, hiểu biết về SKSS/SKTD/KHHGĐ rất hạn chế. Do đó, rủi ro mang thai sớm và ngoài ý muốn cũng như mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục trong đó có HIV là rất cao. Bên cạnh đó, khảo sát cũng chỉ ra rằng, cơ sở vật chất cũng như các dịch vụ về SKSS/SKTD/KHHGĐ dành riêng cho nhóm đối tượng VTN/TN tại các khu công nghiệp còn nhiều thiếu thốn, làm giảm khả năng đáp ứng khi VTN/TN có nhu cầu.
Theo ThS Lương Quang Đảng: Nguyên nhân là do các hình thức truyền thông cho VTN/TN hiện còn khá phân tán, thiếu sự gắn kết. Trong khi đó, các phong tục, tập quán truyền thống lạc hậu còn khá nặng nề khi coi các vấn đề DS/SKSS-KHHGĐ thuộc phạm trù riêng tư, đạo đức và là nguyên nhân làm cho bộ phận không nhỏ VTN/TN còn e ngại, xấu hổ, không dám công khai tìm hiểu, tiếp cận các dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ khiến tình trạng thiếu kiến thức ở nhóm đối tượng này ngày càng có xu hướng tăng lên.
Ngoài ra, việc cung cấp các dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ trong thời gian qua tại Việt Nam còn tập trung vào nhóm đối tượng phụ nữ đã có gia đình mà chưa quan tâm đúng mức đến nhóm đối tượng VTN/TN. Do đó, khi mở rộng đối tượng cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ bao gồm cả nhóm đối tượng VTN/TN chưa mang tính tổng thể từ Trung ương cho tới địa phương. Do đó, VTN/TN chưa có nhiều cơ hội lựa chọn cơ sở dịch vụ phù hợp với lứa tuổi của mình.
Tại Hội thảo, nhiều sinh viên đến từ các trường THCS, THPT, CĐ, ĐH trên địa bàn Hà Nội đã bày tỏ những quan điểm của mình về việc cải thiện tình trạng chăm sóc SKSS cho VTN/TN. Theo đó, nhiều ý kiến cho rằng, hiểu biết của VTN/TN về giới tính và quan hệ tình dục an toàn còn rất nhiều hạn chế, xảy ra hầu như trên khắp cả nước. Điều này đặt ra một dấu hỏi lớn về hiệu quả của việc giáo dục giới tính ở tuổi dậy thì hiện nay, cần phải có những giải pháp thiết thực hơn nữa để nâng cao hiểu biết của VTN/TN về lĩnh vực chăm sóc SKSS cũng như đẩy mạnh việc tiếp cận các dịch vụ DS/SKSS-KHHGĐ được thuận tiện đối với lứa tuổi VTN/TN hiện nay.
Đề án thiết thực, ý nghĩa
Để góp phần giải quyết những vấn đề trên, Tổng cục DS-KHHGĐ tổ chức soạn thảo Đề án “Cải thiện tình trạng DS/SKSS-KHHGĐ cho VTN/TN giai đoạn 2016 - 2020”. Đề án được thực hiện trên phạm vi toàn quốc (63/63 tỉnh, thành phố), ưu tiên các địa phương có tỷ lệ VTN/TN cao (nhiều khu công nghiệp, đông người di cư) với nhóm đối tượng chính là các VTN/TN. Ngoài ra, Đề án còn hướng tới nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ dân số, y tế cũng như gia đình, nhà trường và toàn xã hội, góp phần giáo dục VTN/TN có những hiểu biết nhất định về chăm sóc SKSS/KHHGĐ.
Điểm nổi bật trong Đề án “Cải thiện tình trạng DS/SKSS-KHHGĐ cho VTN/TN giai đoạn 2016 - 2020” nằm ở các hoạt động truyền thông thay đổi hành vi, nâng cao nhận thức của VTN/TN về chăm sóc SKSS. Cụ thể, bên cạnh việc truyền thông cung cấp kiến thức kỹ năng trực tiếp cho đối tượng chính là VTN/TN, Đề án còn tổ chức các hoạt động tuyên truyền nhằm cung cấp thông tin, kiến thức, kỹ năng thực hành về SKSS/SKTD của VTN/TN cho các bậc làm cha mẹ, ông bà, anh chị trong gia đình của VTN/TN để từ đó họ có kiến thức, kỹ năng giáo dục con em mình.
Bên cạnh đó, phối hợp với các đơn vị chức năng của ngành Giáo dục để xây dựng và nhân rộng các mô hình/góc truyền thông về DS/SKSS - KHHGĐ cho VTN/TN. Các mô hình này sẽ thu hút học sinh, sinh viên tham gia sinh hoạt ngoài giờ lên lớp về các chuyên đề SKSS/SKTD, hôn nhân, tầm soát bệnh tật bẩm sinh… Ngoài ra, Đề án còn tập trung xây dựng các góc thân thiện với VTN/TN tại các cơ sở, điểm y tế của khu công nghiệp, doanh nghiệp… để trao đổi, đàm thoại, tìm hiểu kiến thức về DS/SKSS-KHHGĐ; mở rộng hợp tác với các trung tâm tư vấn pháp lý, tư vấn các vấn đề xã hội liên quan đến sức khỏe sinh sản cho VTN/TN.
Ông Nguyễn Văn Tân, Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục DS-KHHGĐ cho biết, để Đề án thực hiện có hiệu quả, cần có cách tiếp cận đa ngành, tức là quan tâm đầu tư hơn nữa đối với nhóm VTN/TN thông qua các diễn đàn quy mô rộng lớn hơn cũng như sự phối kết hợp của các ban, ngành khác nhau trong xã hội. Ông Nguyễn Văn Tân cũng nhấn mạnh: Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ hiện đại, nhất là mạng lưới Internet, sự tiếp cận các thông tin chăm sóc SKSS ngày càng thuận tiện hơn đối với mọi người, đặc biệt là với giới trẻ. Do đó, đại diện lãnh đạo Tổng cục DS-KHHGĐ kêu gọi: Giới trẻ hiện nay không nên chỉ trông chờ vào người lớn mà phải tích cực chủ động tự tìm hiểu về các kiến thức chăm sóc SKSS phù hợp với lứa tuổi của mình để giúp phòng tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra.
Cách tiếp cận thân thiện, phù hợp và đồng bộ
Mục tiêu cụ thể của Đề án cải thiện tình trạng DS/SKSS-KHHGĐ cho VTN/TN giai đoạn 2016-2020: Giảm 50% số VTN/TN có thai ngoài ý muốn vào năm 2020; tăng tỷ lệ điểm cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ thân thiện với VTN/TN lên 75% vào năm 2020; 50% cha mẹ có con trong độ tuổi VTN/TN ủng hộ, hướng dẫn, hỗ trợ con cái chủ động tìm hiểu thông tin, kiến thức và tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ…
Đề án sẽ đưa đến một cách tiếp cận thân thiện, phù hợp và đồng bộ với nhóm dân số đặc thù này nhằm nâng cao kiến thức, thái độ và hành vi của VTN/TN về vấn đề SKSS-KHHGĐ, góp phần thực hiện thành công chiến lược DS-SKSS giai đoạn 2011-2020.
Mai Thùy
Ung thư buồng trứng có chữa được không?
Dân số và phát triển - 21 giờ trướcUng thư buồng trứng là căn bệnh thường tiến triển âm thầm và triệu chứng không rõ ràng khiến nhiều người chủ quan, khi đi khám đã ở giai đoạn muộn. Vậy ung thư buồng trứng có chữa được không, làm thế nào để phát hiện sớm?
Có phải trẻ béo phì dễ dậy thì sớm?
Dân số và phát triển - 23 giờ trướcTrẻ béo phì có nguy cơ cao dậy thì sớm hơn so với trẻ có cân nặng bình thường. Vậy nguyên nhân tại sao trẻ béo phì lại dễ bị dậy thì sớm và có thể phòng ngừa được không?
Phụ nữ mang thai bị đa ối nên điều chỉnh chế độ ăn như thế nào?
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcĐa ối là khi lượng nước ối vượt quá mức bình thường ảnh hưởng đến sức khỏe cả mẹ và bé. Mặc dù chế độ ăn không phải là yếu tố quyết định duy nhất nhưng việc điều chỉnh chế độ ăn uống hợp lý có thể hỗ trợ cải thiện tình trạng này.
Giảm nguy cơ sinh non khi bà mẹ được quản lý thai nghén đầy đủ
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcNguy cơ sinh non sẽ được giảm thiểu tối đa nếu thai phụ được khám thai và thực hiện sinh tại cơ sở y tế có đầy đủ phương tiện kỹ thuật cùng đội ngũ y bác sỹ trợ giúp.
Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH - Với phương châm "đưa chính sách đến gần dân," xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng (chăm sức khỏe sinh sản, hỗ trợ người cao tuổi) và phát huy vai trò của đội ngũ cộng tác viên dân số.
Bổ ích hội thi rung chuông vàng tìm hiểu kiến thức về dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH - Hội thi giúp cho học sinh nâng cao những kỹ năng hoạt động, kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. Đồng thời, tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích để học sinh thể hiện tài năng, trí tuệ, sự sáng tạo.
Gần 150.000 em bé chào đời nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcSau 25 năm, Việt Nam có gần 300.000 chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm được thực hiện, 147.000 em bé ra đời khoẻ mạnh. Trong đó, có gần 3.000 trẻ được chào đời tại Bệnh viện Hùng Vương nhờ kỹ thuật IVF.
5 biểu hiện cho thấy bạn đã mắc hội chứng ống cổ tay
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcHội chứng ống cổ tay là tình trạng phổ biến trong cộng đồng. Hiện số người mắc hội chứng này ngày càng tăng do liên quan đến công việc có sử dụng nhiều tới độ linh hoạt, tỉ mỉ và lặp đi lặp lại của cổ tay.
Bác sĩ khuyến nghị 5 điều quan trọng nên biết về ung thư buồng trứng
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcPhụ nữ thường hiểu nhầm những dấu hiệu ung thư buồng trứng là triệu chứng của các căn bệnh về phụ khoa khác. Việc biết về dấu hiệu ung thư buồng trứng giúp chị em mắc bệnh được điều trị và sớm tăng tỷ lệ sống.
Tắc ống dẫn trứng: Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcTắc ống dẫn trứng là một trong những nguyên nhân gây vô sinh nữ khá thường gặp. Tình trạng này khiến cho trứng và tinh trùng không gặp được nhau, chiếm khoảng 25-30% trong tất cả các trường hợp vô sinh.
Tuổi 50 nên chọn loại hình tập luyện nào là tốt nhất?
Dân số và phát triểnỞ độ tuổi 50 trở lên, tập luyện thể chất không chỉ tập trung vào nâng cao sức khỏe mà còn hướng đến lối sống năng động, dẻo dai, vui vẻ...