Thuốc tránh thai khẩn cấp
Phương pháp tránh thai khẩn cấp bằng hoóc-môn do thày thuốc người Canada tên là Albert Yuzpe thực hiện vào đầu thập kỷ 1970, bằng cách sử dụng viên thuốc tránh thai kết hợp thông thường với liều cao.
![]() |
Phương pháp tránh thai khẩn cấp bằng hoóc-môn do thày thuốc người Canada tên là Albert Yuzpe thực hiện vào đầu thập kỷ 1970, bằng cách sử dụng viên thuốc tránh thai kết hợp thông thường với liều cao. Cũng vào khoảng thời gian đó, người ta nghiên cứu độ an toàn và tính hiệu quả của tránh thai khẩn cấp bằng progestin đơn thuần (levonorgestrel, LNG), và cũng thấy có hiệu quả như phương pháp Yuzpe. Cả hai phương pháp tránh thai khẩn cấp này bao gồm 2 lần uống thuốc trong vòng 72 giờ sau khi giao hợp không có bảo vệ. Do lượng hoóc-môn chỉ dùng trong một thời gian ngắn nên tuy dùng với liều cao, nhưng cũng không có hại cho người sử dụng.
Công thức thuốc tránh thai khẩn cấp
· Với loại viên tránh thai kết hợp chứa 50 mcg ethinylestradiol (EE) và 250 mcg levonorgestrel (LNG) như: Neogynon, Noral, Nordion, và Ovran. Uống liều thứ nhất 2 viên, càng sớm càng tốt trong vòng 72 giờ sau giao hợp không được bảo vệ. Liều thứ hai 2 viên, sau liều thứ nhất 12 giờ.
· Nếu là loại viên thuốc tránh thai kết hợp chứa 30mcg EE 150 mcg LNG (như: Microgynon, Nordette, và Regevidon), thì cũng uống như trên, nhưng mỗi lần 3 viên.
Phương pháp sử dụng Levonorgestrel (LNG) đơn thuần:
· Nếu là thuốc có chứa 750 mcg levonorgestrel (Postinor): liều thứ nhất uống 1viên, càng sớm càng tốt, trong vòng 72 giờ đầu sau giao hợp không có bảo vệ. Liều thứ hai 1 viên sau liều thứ nhất 12 giờ.
· Nếu viên thuốc chỉ chứa 30mcg levonorgestrel (thí dụ Microlut, Microval, và Norgeston), cách uống như trên nhưng mỗi lần uống 25 viên.
· Nếu loại thuốc chứa 75 mcg levonorgestrel (như Ovrette), cũng uống như trên, mỗi lần 20 viên.
Hiểu biết về tránh thai khẩn cấp
Một số nghiên cứu khác lại cho thấy phụ nữ Mỹ vẫn còn nhầm lẫn giữa tránh thai khẩn cấp và phá thai bằng thuốc Mifepristone (RU.486).
Không riêng gì phụ nữ, ngay cả các thày thuốc chuyên khoa sản-phụ của Mỹ đa số cũng không thường xuyên trao đổi về biện pháp này với khách hàng trong khi tư vấn. Trong thực hành, nhiều thày thuốc đã không đưa biện pháp tránh thai khẩn cấp vào cùng với các dịch vụ thường xuyên của họ. Hội Sản phụ khoa Mỹ đã phải kêu gọi các hội viên của mình tham gia tích cực hơn trong việc phổ biến và cung cấp biện pháp này. Hội tin rằng sẽ có thể giảm đi một nửa số trường hợp thai nghén ngoài ý muốn ở Mỹ nếu như hầu hết phụ nữ biết đến biện pháp này cũng như các thày thuốc tham gia cung cấp biện pháp đó.
Vì biện pháp tránh thai khẩn cấp chỉ có hiệu quả nếu sử dụng trong phạm vi 72 giờ sau giao hợp không được bảo vệ, và đăc biệt có hiệu quả cao hơn nếu được sử dụng trong vòng 24 giờ đầu. Do vậy muốn cho biện pháp này phát huy hiệu quả, cần phải làm sao cho biện pháp sẵn có một cách rộng rãi, và bất cứ lúc nào cũng có thể đáp ứng nhanh nhất cho người sử dụng khi có yêu cầu.
Ở các nước mà việc mua thuốc tránh thai khẩn cấp cần phải có đơn thuốc như ở Mỹ, người ta cũng đã phải có giải pháp thích hợp để làm cho biện pháp dễ tiếp cận hơn và đáp ứng kịp thời hơn như: cấp sẵn đơn cho phụ nữ khi cần chỉ việc đi mua, hay bằng cách kê đơn qua điện thoại. Nhưng người ta cũng phải thừa nhận rằng tốt nhất là bỏ các thủ tục nói trên để các của hàng thuốc có thể bán thuốc mà không phải có đơn. Nước Pháp rất thoáng trong việc làm cho thuốc tránh thai khẩn cấp được đễ dàng sẵn có cho những ai cần đến.
Lợi ích của tránh thai khẩn cấp
Theo một điều tra mới đây của Mỹ, tránh thai khẩn cấp đã góp phần đáng kể trong việc giảm tỷ lệ phá thai trong năm 2000-2001. Nghiên cứu này cho thấy riêng năm 2000, ở Mỹ đã tránh được 51.000 trường hợp phá thai do đã sử dụng biện pháp tránh thai khẩn cấp, và tránh thai khẩn cấp đã đóng góp 43% cho mức giảm tổng tỷ suất phá thai trong thời kỳ 1994-2000.
Như đã nói ở trên, việc phổ biến biện pháp tránh thai khẩn cấp và tạo điều kiện thuận lợi cho người dùng đã góp phần làm cho nước Pháp có tỷ lệ phá thai vào loại thấp trên thế giới.
Phổ biến biện pháp tránh thai khẩn cấp có “vẽ đường cho hươu chạy” không?
Ở Mỹ, nghiên cứu cho thấy vị thành niên có hoạt động tình dục thì cũng không quan hệ tình dục thường xuyên như các phụ nữ lớn tuổi hơn và có gia đình. Ngoài ra người ta cũng nhận thấy có đến 25% vị thành niên không sử dụng biện pháp tránh thai khi quan hệ tình dục lần đầu, và nhiều vị thành niên cảm thấy khó khăn khi phải uống thuốc tránh thai thường xuyên hay dùng các biện pháp tránh thai khác như bao cao su hay màng ngăn âm đạo. Do đó, ở Mỹ người ta cho rằng biện pháp tránh thai khẩn cấp thích hợp với các đối tượng vị thành niên đã có quan hệ tình dục.
Theo tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới, lý do sử dụng biện pháp tránh thai khẩn cấp gồm: (1) không sử dụng biện pháp tránh thai nào (từ 46 đến 67%, tuỳ theo tác giả); (2) thất bại của biện pháp tránh thai (25 đến 48%, tuỳ theo tác giả), và (3) lý do khác (từ 7 đến 14%).
Cũng có người lo ngại rằng việc phổ biến biện pháp tránh thai khẩn cấp sẽ tạo điều kiện cho vị thành niên quan hệ tình dục nhiều hơn. Thực ra không có bằng chứng về việc này. Nghiên cứu mới đây ở Vương quốc Anh cho thấy nhóm vị thành niên đã được giảng dạy về biện pháp tránh thai khẩn cấp đã có hiểu biết hơn và không thay đổi về hành vi tình dục của họ khi so sánh với nhóm chứng không được dạy về tránh thai khẩn cấp.
Liên hệ với chương trình KHHGĐ của Việt Nam
1. Chương trình KHHGĐ của Việt Nam trong hơn ba thập kỷ qua đã có những thành công đáng kể trong việc góp phần giảm tỷ lệ sinh và tăng tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai. Nếu như cuộc Điều tra nhân khẩu-sức khoẻ lần thứ nhất năm 1988 cho thấy: tổng tỷ suất sinh (TFR) bằng 4 và tỷ lệ sử dụng tránh thai (CPR) bằng 53%, thì cuộc Điều tra nhân khẩu-sức khoẻ năm 1997 cho thấy tổng tỷ suất sinh chỉ còn 2,7 và tỷ lệ sử dụng tránh thai tăng lên là 75%. Chương trình KHHGĐ không chỉ thành công về số lượng mà chất lượng dịch vụ tránh thai cũng tăng lên, thể hiện qua tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai có hiệu quả tăng lên (chiếm 59% số người sử dụng tránh thai, theo Điều tra năm 1997), và đã đưa thêm thuốc tiêm tránh thai (DMPA) vào chương trình quốc gia.
2. Bên cạnh thành công nói trên, tỷ lệ nạo phá thai của Việt Nam vẫn còn thuộc loại cao trên thế giới. Tỷ lệ nạo phá thai cao phản ảnh tình trạng thai nghén ngoài ý muốn còn cao, và tỷ lệ này lại gián tiếp cho thấy chất lượng chương trình KHHGĐ chưa thật tốt trong việc đáp ứng nhu cầu tránh thai cũng như giúp các cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh thai có hiệu quả hơn. Mặc dù nạo phá thai ở Việt Nam rất thuận tiện và tương đối an toàn, tuy nhiên nạo, phá thai bằng thủ thuật vẫn không lợi cho sức khoẻ phụ nữ và người ta vẫn còn e ngại nguy cơ nhiễm khuẩn do thủ thuật nạo phá thai gây ra. Gần đây, phá thai bằng thuốc đã được nghiên cứu cho thấy kết quả phá thai cao, an toàn và giúp người phụ nữ tránh khỏi nguy cơ nhiễm khuẩn do thủ thuật có thể gây ra. Tránh thai khẩn cấp sẽ góp phần làm tăng sự lựa chọn của người dùng trong các tình huống đặc biệt như giao hợp không được bảo vệ, rách hay tuột bao cao su, hoặc nạn nhân bị cưỡng ép tình dục/bị hiếp hay nhóm vị thành niên tuy đã có hoạt động tình dục nhưng không quan hệ tình dục thường xuyên.
3. Từ nhiều năm nay, thuốc tránh thai khẩn cấp loại chỉ chứa progestin- Levonorgestrel, đã có tại Việt Nam với biệt dược Postinor. Thông tin thu lượm được cho thấy cả người mua (thường là các nam nữ thanh niên chưa có gia đình) và cả người bán thuốc (ít khi dược sĩ trực tiếp bán) chưa hiểu biết đúng đắn về thuốc tránh thai khẩn cấp. Họ thường nhầm lẫn biện pháp này với các thuốc tránh thai thông thường khác. Chương trình KHHGĐ quốc gia chưa chú ý đến biện pháp này, nên chưa có hướng dẫn hay khuyến khích việc sử dụng.
4. Chúng ta chưa có thông tin đầy đủ về các nguyên nhân dẫn đến các trường hợp có thai ngoài ý muốn nói chung và những trường hợp có thai ngoài ý muốn đã kết thúc bằng phá thai. Theo kinh nghiệm của nước ngoài cho thấy, việc phổ biến rộng rãi biện pháp tránh thai khẩn cấp có thể góp phần giảm tỷ lệ nạo, phá thai, nhất là ở nhóm tuổi vị thành niên đã có hoạt động tình dục. Nước ta là một nước có tỷ lệ nạo, phá thai nói chung thuộc loại cao trên thế giới, và trong số những người phá thai hàng năm vị thành niên chiếm tỷ lệ đáng kể.
Cuộc thi "Rung chuông vàng" nâng cao kiến thức dân số và sức khỏe sinh sản trong trường học
Dân số và phát triển - 11 giờ trướcGĐXH - Thông qua cuộc thi, học sinh được trang bị kiến thức về dân số, phát triển và sức khỏe sinh sản vị thành niên; rèn kỹ năng sống, ứng xử, phòng chống xâm hại và bạo lực học đường. Đây cũng là sân chơi lành mạnh để các em thể hiện trí tuệ, sáng tạo, giao lưu và chia sẻ quan điểm về những vấn đề văn hóa - xã hội.
8 bước chủ động phòng tránh và giảm thiểu trầm cảm sau sinh
Dân số và phát triển - 22 giờ trướcTrầm cảm sau sinh là một rối loạn tâm trạng nghiêm trọng, gây rủi ro cao cho sức khỏe tinh thần của người mẹ và sự an toàn của trẻ sơ sinh. Tìm hiểu 8 bước tiếp cận quan trọng giúp phụ nữ giảm thiểu nguy cơ trầm cảm sau sinh và vững vàng trong hành trình nuôi con.
Thoái vị đĩa đệm cột sống lưng: Cần làm gì để hết đau?
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH - Chỉ một ngày khi đồng ý phẫu thuật thoát vị đĩa đệm cột sống lưng, cô L. đã có thể tự đi lại và được xuất viện sau 1 tuần.
Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (3): Giải pháp toàn diện và sức mạnh hệ thống chính trị
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Sau khi nhìn nhận rõ thách thức từ con số và gốc rễ từ tư tưởng xã hội, cuộc chiến kiểm soát nhằm giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tại Hà Nội bước sang một giai đoạn mới: Giai đoạn hành động sáng tạo và quyết liệt.
Mang thai bị viêm âm đạo ảnh hưởng thế nào đến thai nhi?
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Viêm âm đạo do nấm không gây nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng, nhưng nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến một số bệnh lý cho thai phụ và thai nhi.
Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (2): Nguyên nhân sâu xa và rào cản nhận thức
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) dai dẳng tại Hà Nội không phải là kết quả của sự ngẫu nhiên. Nó là hệ quả trực tiếp của sự xung đột giữa các giá trị tiến bộ về bình đẳng giới và những tư tưởng truyền thống đã ăn sâu vào tiềm thức xã hội.
Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (1): Thách thức lớn cho an sinh và chất lượng dân số Thủ đô
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Hà Nội, Thủ đô với gần 8,8 triệu dân đã đạt được mức sinh thay thế lý tưởng (khoảng 2,1 con/phụ nữ) và đang phấn đấu tiếp tục duy trì mức sinh thay thế trong năm 2025 và những năm tiếp theo. Tuy nhiên, đằng sau thành tựu này, thành phố đang phải đối mặt với một thách thức lớn và dai dẳng là tình trạng mất cân bằng tỉ số giới tính khi sinh.
Đi khám xương khớp nghĩ bệnh tuổi trung niên, người phụ nữ 52 tuổi bất ngờ phát hiện tiền ung thư cổ tử cung
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH - Đang ở độ tuổi được khuyến cáo tầm soát ung thư cổ tử cung, người bệnh được bác sĩ khuyến nghị thực hiện xét nghiệm HPV. Kết quả cho thấy dương tính với HPV type 1
5 nhóm phụ nữ nên chú ý khám sàng lọc ung thư cổ tử cung
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcSàng lọc ung thư cổ tử cung rất quan trọng để phát hiện sớm và cải thiện đáng kể cơ hội điều trị thành công. Vậy những chị em nào nên đặc biệt chú ý sàng lọc căn bệnh này?
Cô gái 23 tuổi bất ngờ phát hiện nguy cơ ung thư cổ tử cung từ một việc rất nhiều chị em Việt bỏ qua
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcGĐXH - Người phụ nữ phát hiện ung thư cố tử cung hoàn toàn khỏe mạnh, không có biểu hiện bất thường như dịch âm đạo, đau bụng dưới hay rối loạn kinh nguyệt.
Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.
