Hà Nội
23°C / 22-25°C

Ba năm thực hiện chiến lược dân số VN 2001 -2010

Thứ ba, 15:11 22/11/2011 | Dân số và phát triển

Chiến lược Dân số Việt Nam 2001 - 2010, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 147/2000/QĐ-TTg ngày 22/12/2000; đến nay sau 3 năm triển khai thực hiện Chiến lược, đã đạt được một số kết quả như sau:

1. Quy mô dân số và mức sinh
 
1.1. Quy mô dân số

Dân số trung bình vào năm 2000 là 77,6 triệu người, đến năm 2003 ước tính là 80,7 triệu người. Như vậy bình quân mỗi năm, quy mô dân số nước ta tăng khoảng 1 triệu người. Với mức tăng này thì chúng ta sẽ đạt mục tiêu Nghị quyết Đại hội IX đề ra là quy mô dân số đến năm 2005 khoảng 83 triệu người và khoảng 88-89 triệu người vào năm 2010.

Theo dự báo, đến năm 2050 xếp thứ 15, với số dân 117 triệu người và Việt Nam trở thành một trong 16 nước có trên 100 triệu dân; lúc đó dân số Việt Nam đông hơn Nhật Bản (101 triệu dân) và gần bằng Nga (119 triệu dân). Trong khu vực Đông Nam Á, dân số Việt Nam xếp thứ 3 (sau Inđônêxia và Phi-líp-pin). Đến năm 2050 trật tự này vẫn không thay đổi. Hiện nay, mật độ dân số nước ta đã là 243 người/km2, đông hàng thứ 14 so với các quốc gia trên thế giới.

Tuy tỷ lệ tăng dân số đã được kiềm chế, song quy mô dân số nước ta vẫn tiếp tục tăng, bình quân mỗi năm tăng thêm 1 triệu người trong giai đoạn 2001 - 2010 và tăng thêm mỗi năm 95 vạn người trong giai đoạn 2011 - 2020 và sẽ ổn định ở mức 113 - 115 triệu người vào giữa thế kỷ 21, nếu như công tác dân số đạt mục tiêu đề ra.
 
1.2. Mức sinh

Mức sinh giảm nhanh và tiến đến gần mức sinh thay thế nhưng kết quả chưa vững chắc vẫn còn tiềm ẩn sự gia tăng dân số nhanh trở lại.

Kết quả điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình (dưới đây viết tắt là ĐTBĐDS) trong 3 năm 2000, 2001 và 2002 đã cho thấy xu hướng là những vùng/tỉnh có mức sinh cao trong cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở 1999 thì đến nay mức sinh tiếp tục giảm, nhưng ngược lại ở những vùng/tỉnh có mức sinh đã đạt hoặc tiệm cận mức sinh thay thế thì mức sinh lại nhích dần lên, làm cho mức sinh chung của cả nước tuy vẫn giảm nhưng với tốc độ giảm chậm dần, từ 19,9%o theo Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/1999 xuống còn 19,0%o theo ĐTBĐDS 1/4/2002, trung bình mỗi năm chỉ giảm được 0,225%o, chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng IX đề ra là giảm mức sinh bình quân hàng năm 0,5%o.

Tổng tỷ suất sinh (TFR) của cả nước giảm từ 2,33 con năm 1999 xuống còn 2,28 con năm 2002, trong đó TFR ở khu vực thành thị đã tăng từ 1,7 lên 1,9 con, TFR ở khu vực nông thôn đã giảm từ 2,6 xuống 2,4 con; tỷ suất sinh thô cũng tăng từ 15,9%o lên 16,9%o ở khu vực thành thị và giảm từ 21,2%o xuống 19,6%o ở khu vực nông thôn. Đến năm 2002, có 19 tỉnh có TFR đạt hoặc thấp hơn mức sinh thay thế với tổng số dân 28,29 triệu người, chiếm 35,5% dân số cả nước; 23 tỉnh có TFR từ trên 2,1 đến 2,5 con với số dân là 31,99 triệu người, chiếm 40,12% dân số cả nước; 19 tỉnh có TFR trên 2,5 con với số dân là 19,717 triệu người chiếm 24,7% dân số cả nước. Đặc biệt là khu vực nông thôn của vùng Tây Bắc và Tây Nguyên hiện vẫn có TFR ở mức rất cao - trên 3 con/phụ nữ.2

Một số chỉ tiêu nhân khẩu học từ sau tổng điều tra dân số (TĐTDS) và nhà ở (1/4/1999)
 
Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên mặc dù đã giảm dần nhưng chưa ổn định và vẫn còn khá cao, chiếm 22% số sinh theo điều tra năm 2002 (1993: 45,7%; 1994: 37,1%; 1995: 37,7%; 1996: 29,5%; 1997: 31,67% và năm 2002 là 21,73%). Tỷ lệ này của khu vực nông thôn cao gần gấp đôi khu vực thành thị (24% so với 13%). Trong các vùng của cả nước thì chỉ có vùng Đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên thấp (14,84%), nhưng vẫn chưa tương ứng với kết quả của tổng tỷ suất sinh (tổng tỷ suất sinh đạt ở mức thay thế thì tỷ lệ sinh con thứ 3 phải dưới 10%). Các vùng khác thì tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên còn tương đối cao, như Tây Nguyên 35,32%, Bắc Trung bộ 29,11%, Tây Bắc 28,57%, Nam Trung bộ 26,87%.
 
2. Chất lượng dân số.
 
Trong thập kỷ qua, chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta đã được nâng lên đáng kể, đạt 0,688 và xếp thứ 109 trong số 175 nước năm 2001. Theo "Báo cáo phát triển con người năm 2003" của Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) thì Việt Nam đã đạt được tiến bộ rõ rệt trong phát triển con người, với chỉ số phát triển con người tăng liên tục.
 

Chỉ số phát triển con người của Việt Nam xếp trên nhiều nước trong khu vực như Ấn Độ, Pa-ki-xtan, Mi-an-ma, Băng-la-đét. Tuy nhiên, chỉ số này vẫn ở mức trung bình thấp so với khu vực và trên thế giới.

Tuổi thọ bình quân của nước ta khá cao và tiếp tục tăng từ 66 tuổi năm 1989, lên 68 tuổi năm 1999 và tăng lên 71 tuổi năm 2002. Nhưng tuổi thọ khoẻ mạnh của nước ta lại thấp, chỉ 58,2 tuổi và xếp thứ 116 so với 174 nước trên thế giới năm 2000. Các tố chất về thể lực của người Việt Nam còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chiều cao, cân nặng và sức bền. Tỷ lệ thanh niên từ 18-22 tuổi đạt tiêu chuẩn 165cm trở lên (đối với nam) là 31,9% và 155cm (đối với nữ) là 31,9%

.3 Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm, song theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tỷ lệ này vẫn còn ở mức cao: 33,8% năm 2001, 30,1% năm 2002. Chỉ có hai thành phố lớn là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh có tỷ lệ suy dinh dưỡng ở mức trung bình (10%-19%), có 24 tỉnh có tỷ lệ suy dinh dưỡng ở loại cao (20%-30%) và có tới 35 tỉnh còn lại có tỷ lệ suy dinh dưỡng ở loại rất cao (trên 30%)4.
 
3. Tình hình thực hiện các giải pháp của chiến lược
 
3.1. Lãnh đạo, tổ chức và quản lý

Đảng, chính quyền và đoàn thể các cấp đã thực sự nhận thức được tầm quan trọng của công tác DS - KHHGĐ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, coi đây là một giải pháp quan trọng để góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em đã được thành lập trên cơ sở hợp nhất Uỷ ban quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình và Uỷ ban Bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em Việt Nam. Ngày 11/11/2002, Chính phủ đã ra Nghị định số 94/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em.

Thực hiện Nghị định số 12/2001/NĐ-CP ngày 27/3/2001 của Chính phủ và Thông tư liên tịch số 32/2001/TTLT - BTCCBCP - UBQGDS & KHHGĐ & BVCSTE, Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em cấp tỉnh, thành phố và quận, huyện đã được kiện toàn; song ở cấp huyện chưa theo một mô hình thống nhất nên có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các mục tiêu của chương trình DS - KHHGĐ.
 
3.2. Truyền thông - giáo dục thay đổi hành vi
 
Đến nay, đã có 42 tỉnh thành lập Trung tâm Tư vấn dịch vụ dân số-gia đình- trẻ em để thực hiện các hoạt động tư vấn trực tiếp, tư vấn cộng đồng về lĩnh vực này. Các mô hình truyền thông dân số tiếp tục được xây dựng, củng cố và mở rộng trên cơ sở thế mạnh của mỗi ngành, đoàn thể và đảm bảo tiếp cận phù hợp với từng nhóm đối tượng. Các hoạt động truyền thông, tư vấn về dân số, phát triển, SKSS/KHHGĐ đã được lồng ghép vào các hoạt động thường xuyên của các ban ngành, mặt trận, đoàn thể các cấp.

Để nâng cao hiệu quả thông tin cho lãnh đạo các cấp, các tờ tin với nội dung ngắn gọn, súc tích, hình thức đẹp định kỳ đã được xuất bản. Được sự hỗ trợ của UNFPA, Uỷ ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội đã xây dựng tờ tin "Vấn đề dân số hôm nay" cung cấp miễn phí đến đại biểu dân cử các cấp.

Trong hai năm từ tháng 6/2001 đến tháng 6/2003, Tiểu dự án GDDS thuộc Dự án Dân số - Sức khoẻ gia đình nhằm tăng cường chất lượng giáo dục dân số - sức khoẻ sinh sản (GDDS - SKSS) vị thành niên trong trường trung học phổ thông đã được triển khai thực hiện. Hiện nay, trên toàn quốc vấn đề GDDS - SKSS cho học sinh phổ thông trung học đã triển khai được ở 43 tỉnh, thành. Kết quả của việc thực hiện GDDS - SKSS trong nhà trường những năm qua cho thấy nhu cầu cần được GDDS - SKSS trong nhà trường là bức thiết, được sự đồng thuận ngày càng cao của những lực lượng đang tham gia vào quá trình GDDS - SKSS.
 
3.3. Chăm sóc SKSS /KHHGĐ
 
Thực hiện mục tiêu là đưa dịch vụ KHHGĐ đến tận người dân, các đội dịch vụ KHHGĐ lưu động tiếp tục được củng cố để đặt vòng tránh thai, tiêm thuốc tránh thai, cấy thuốc tránh thai định kỳ ở từng thôn, bản cho nhân dân ở vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Tiếp thị xã hội các phương tiện tránh thai tiếp tục được mở rộng.

Cùng với việc làm tốt công tác tuyên truyền vận động, chất lượng của hệ thống cung cấp dịch vụ KHHGĐ hiện có được nâng cao đáp ứng yêu cầu cung cấp dịch vụ đa dạng, an toàn, thuận tiện đã tạo điều kiện tăng nhanh số người áp dụng BPTT. 78,5% phụ nữ hiện đang có chồng đang sử dụng các BPTT. Tỷ trọng phụ nữ đang có chồng sống ở những cộng đồng có cán bộ y tế cơ sở là 96,6%, cộng tác viên DS - KHHGĐ 98,4% và đội KHHGĐ lưu động 77,3%. 66,8% phụ nữ hiện đang có chồng sống chỉ cách nơi cung cấp dịch vụ kế hoạch hoá gia đình dưới 1km và 27,3% sống trong khoảng cách từ 1 đến 4km.5

Tuy nhiên, công tác tư vấn còn yếu, dịch vụ tư vấn chưa được chú ý đúng mức. Nạo, phá thai và điều trị vô sinh có xu hướng tích cực nhưng vẫn còn hạn chế. Phụ nữ 15-49 tuổi hiện đang có chồng, nạo/phá thai một lần vẫn chiếm tỷ trọng tới 82,38%, trong đó 100% phụ nữ vùng Duyên hải Nam Trung bộ nạo/phá thai một lần, vùng Đồng bằng sông Hồng, Đông Bắc và Tây Nguyên nạo/phá thai một lần chiếm tỷ trọng trên 90%. Vùng Tây Bắc phụ nữ nạo/phá thai 2 lần có tỷ trọng chiếm tới 44,96%. Tỷ lệ biến chứng sau nạo/phá thai của phụ nữ 15-49 tuổi hiện đang có chồng còn cao, cứ 100 phụ nữ nạo/phá thai thì có gần 8 phụ nữ bị biến chứng.6
 
3.4. Nâng cao chất lượng thông tin, dữ liệu về dân cư
 
Từ các năm 1997, 1998 đăng ký dân số và hệ dữ liệu dân cư đã được Uỷ ban quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình nay là Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em triển khai thí điểm. Nhằm bảo đảm tính pháp lý của công tác này, Nghị định về đăng ký dân số và hệ dữ liệu dân cư đã được Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em xây dựng và trình Chính phủ. Hiện nay, 444/627 huyện đã thiết lập được kho dữ liệu điện tử, duy trì thường xuyên việc cập nhật các thông tin biến động. Công tác bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ chuyên trách các cấp được thực hiện hàng năm.
 
3.5. Nâng cao dân trí, tăng cường vai trò của gia đình và bình đẳng giới

Quy mô giáo dục và mạng lưới trường lớp tiếp tục được củng cố và phát triển. Xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập trung học cơ sở được đẩy mạnh. Đã có 14 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi; 15 tỉnh, thành phố hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ học sinh lưu ban, học sinh bỏ học đã giảm dần.

Các biện pháp pháp luật bảo đảm cho sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ tiếp tục được khẳng định và phát triển trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế - dân sự, lao động, học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia hoạt động văn hoá nghệ thuật.

Dự án "Lồng ghép dân số với phát triển gia đình bền vững thông qua tín dụng-tiết kiệm và phát triển kinh tế gia đình" đã được triển khai tại 32 tỉnh, có sự tham gia của nhiều Bộ, ngành như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội. Hiệu quả của việc lồng ghép này không chỉ giới hạn ở việc cải thiện trực tiếp đời sống kinh tế, chất lượng cuộc sống cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình, đặc biệt là những gia đình nghèo, mà còn góp phần nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và cộng đồng, tạo cho họ niềm tin và khả năng tổ chức thực hiện các hoạt động tập thể.  

Các mô hình chăm sóc người cao tuổi đã được triển khai thử nghiệm nhưng những định hướng chính sách của Nhà nước về vấn đề này vẫn còn hạn chế, gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện.

3.6. Đẩy mạnh xã hội hoá, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về dân số và phát triển

Pháp lệnh Dân số đã được ban hành, bảo đảm hành lang pháp lý cho việc tổ chức thực hiện công tác dân số của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, cho việc thực hiện chính sách dân số. Các bộ, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội tiếp tục được huy động và nâng cao hiệu quả sự tham gia vào công tác DS - KHHGĐ thông qua các chương trình phối hợp hoạt động dài hạn.

Thực hiện chủ trương mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đặc biệt là ở cơ sở, Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá - Thông tin, Uỷ ban quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình nay là Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, Ban thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn bổ sung việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư về việc thực hiện chính sách DS - KHHGĐ vào trong hương ước, quy ước. Nhiều địa phương đã và đang xây dựng và hoàn thiện hương ước, quy ước làng văn hoá trên cơ sở kế thừa những mặt tích cực của hương ước cũ, phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, để mở rộng mô hình đưa chính sách DS-KHHGĐ vào hương ước thôn, ấp, bản, làng thì cần phải có một hướng dẫn thống nhất để các địa phương thực hiện.
 
3.7. Kinh phí
 
Xác định đầu tư cho công tác DS - KHHGĐ là đầu tư cho phát triển, là đầu tư đưa lại lợi ích trực tiếp rất cao, kinh phí từ ngân sách nhà nước đầu tư cho chương trình DS - KHHGĐ trong 3 năm qua đều tăng. Đầu tư tăng lên, cộng với cơ chế quản lý kinh phí có hiệu quả đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho việc triển khai các hoạt động của công tác DS - KHHGĐ. Tuy nhiên, mức đầu tư bình quân vẫn chưa đạt mức tối thiểu 0,6USD/người/năm như chiến lược đã đề ra.
Ở nhiều địa phương đã xuất hiện tư tưởng chủ quan cho rằng, công tác DS - KHHGĐ đã thành công, không cần tăng đầu tư kinh phí và nỗ lực thêm nữa thì mức sinh sẽ tiếp tục giảm và đạt kết quả tốt, nên có tình trạng cắt giảm chỉ tiêu kế hoạch và kinh phí chi cho công tác DS - KHHGĐ.
 
3.8. Đào tạo và nghiên cứu
 
Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ tiếp tục được tăng cường thông qua các lớp đào tạo cơ bản, đào tạo nâng cao và tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ thường xuyên.

Việc nghiên cứu, thử nghiệm những vấn đề liên quan đến chất lượng dân số tiếp tục được đầu tư như tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm về bảo quản mô phôi, nuôi cấy tế bào và di truyền người tại một số cơ sở của ngành y tế; duy trì việc triển khai thí điểm các mô hình nâng cao chất lượng dân số ở cộng đồng và mô hình kiểm tra sức khoẻ, tư vấn tiền hôn nhân tại một số địa phương; kiểm tra sức khoẻ các bà mẹ đang mang thai để giảm thiểu trẻ sơ sinh dị dạng, dị tật.

Để thực hiện thành công những mục tiêu của Chiến lược Dân số Việt Nam 2001-2010, trong thời gian tới chúng ta cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:

1. Thực hiện đồng bộ các giải pháp, tập trung mọi nỗ lực để duy trì bằng được xu thế giảm mức sinh một cách vững chắc để đạt mức sinh thay thế vào năm 2005, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức khoảng 113 triệu dân vào giữa thế kỷ XXI, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.

2. Từng bước nâng cao chất lượng dân số, chăm lo bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tạo cơ sở để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

3. Từng bước điều chỉnh cơ cấu dân số và phân bố dân cư phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng vùng; phù hợp với yêu cầu bảo vệ môi trường và sinh thái.

Trước mắt cần kiểm soát chặt chẽ việc duy trì cân bằng giới tính khi sinh, bảo đảm cho sự cân đối giới tính giữa nam và nữ theo quy luật tự nhiên của sinh sản, bảo đảm cho sự ổn định và phát triển xã hội lành mạnh. Có biện pháp phát triển các dịch vụ xã hội phù hợp với cơ cấu dân số già trong tương lai. Tổ chức tốt việc phụng dưỡng, chăm sóc và phát huy vai trò của người già. Gia đình phải là điểm tựa cơ bản của người già sau khi đã hết tuổi lao động.

4. Lồng ghép tốt việc giải quyết các vấn đề DS - KHHGĐ và xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; thực hiện bình đẳng giới trong phạm vi xã hội và gia đình.

Việc giải quyết các vấn đề dân số phải được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và việc thực hiện bình đẳng giới. Kết quả của việc giải quyết tốt các vấn đề gia đình, bình đẳng giới có tác động tích cực đến việc giải quyết các vấn đề dân số và ngược lại.

5. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống đăng ký dân số và quản lý dân cư nhằm đáp ứng yêu cầu hoạch định chính sách và lập kế hoạch phát triển của trung ương và từng địa phương, góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội.
 
Tổng kết kinh nghiệm trong nước, rút ra những bài học thành công và những mặt còn yếu kém; học tập kinh nghiệm của những nước đi trước; áp dụng công nghệ tiên tiến và hình thành hệ thống tổ chức bộ máy phù hợp thực hiện tốt công tác đăng ký dân số và quản lý dân cư.
 
Theo Nguyễn Hồng Ngọc
Tạp chí Dân số & Phát triển (số 3/2004), website Tổng cục Dân số & KHHGĐ
kimngan
Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn
Ca vỡ tử cung hy hữu, thai nhi nằm trong ổ bụng, bác sĩ cứu sống hai mẹ con ngoạn mục

Ca vỡ tử cung hy hữu, thai nhi nằm trong ổ bụng, bác sĩ cứu sống hai mẹ con ngoạn mục

Dân số và phát triển - 5 giờ trước

Khoa Phụ Sản - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương vừa cứu sống sản phụ 23 tuổi đang mang thai ở tuần thứ 37 trong tình trạng vỡ tử cung hoàn toàn – biến chứng sản khoa hiếm gặp nhưng cực kỳ nguy hiểm.

Sàng lọc trước sinh - chìa khóa cho thai kỳ khỏe mạnh

Sàng lọc trước sinh - chìa khóa cho thai kỳ khỏe mạnh

Dân số và phát triển - 6 giờ trước

Trong suốt thời gian mang thai, sức khỏe của cả mẹ và bé luôn là ưu tiên hàng đầu. Để đảm bảo em bé chào đời khỏe mạnh và mẹ có một thai kỳ an toàn, sàng lọc trước sinh đóng một vai trò vô cùng quan trọng.

Mẹ bị thiếu máu khi mang thai, con có nguy cơ dị tật tim

Mẹ bị thiếu máu khi mang thai, con có nguy cơ dị tật tim

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

Thiếu máu khi mang thai có thể gây ra nhiều ảnh hưởng cho sức khỏe cả mẹ và em bé. Đặc biệt, những đứa trẻ sinh ra ở người mẹ bị thiếu máu có nguy cơ dị tật tim cao hơn.

7 thói quen gây hại tinh trùng

7 thói quen gây hại tinh trùng

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

Để có sức khỏe tinh trùng tốt nhất, nam giới nên duy trì một lối sống lành mạnh, chế độ ăn uống cân bằng, tránh các chất độc hại và tham khảo ý kiến bác sĩ nếu có bất kỳ lo ngại nào.

Từ hôm nay, vợ chồng tự quyết thời gian sinh con, số con, khoảng cách các lần sinh

Từ hôm nay, vợ chồng tự quyết thời gian sinh con, số con, khoảng cách các lần sinh

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

Với 100% thành viên biểu quyết tán thành, UBTVQH chính thức thông qua sửa đổi Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số. Theo đó, từ nay người dân tự quyết thời gian sinh con, số con và khoảng cách các lần sinh.

Phụ nữ mang thai ăn dứa có nguy cơ sảy thai hay chuyển dạ sớm không?

Phụ nữ mang thai ăn dứa có nguy cơ sảy thai hay chuyển dạ sớm không?

Dân số và phát triển - 3 ngày trước

Dứa là loại trái cây thơm ngon, bổ dưỡng nhưng những lời đồn về dứa không an toàn đối với phụ nữ mang thai đã khiến nhiều mẹ bầu lo lắng và tránh ăn dứa.

10 dấu hiệu cảnh báo ung thư tuyến tiền liệt

10 dấu hiệu cảnh báo ung thư tuyến tiền liệt

Dân số và phát triển - 3 ngày trước

Ung thư tuyến tiền liệt là một trong những loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới. Ở giai đoạn sớm, ung thư tuyến tiền liệt không có dấu hiệu rõ ràng nên dễ nhầm lẫn với u phì đại lành tính tuyến tiền liệt.

Việt Nam đang có tốc độ già hóa nhanh nhất châu Á

Việt Nam đang có tốc độ già hóa nhanh nhất châu Á

Dân số và phát triển - 5 ngày trước

Người cao tuổi ở Việt Nam thường mắc trung bình 3-4 bệnh lý mạn tính khi nhập viện. Dự kiến năm 2025, nước ta sẽ có hơn 16 triệu người cao tuổi.

Khắc phục tình trạng giãn âm đạo cách nào?

Khắc phục tình trạng giãn âm đạo cách nào?

Dân số và phát triển - 1 tuần trước

Giãn âm đạo là một vấn đề tế nhị ảnh hưởng đến đời sống tình dục của nhiều phụ nữ. Âm đạo có nhiều hình dạng và kích thước khác nhau ở mỗi người nhưng việc tìm kiếm sự săn chắc để chị em tự tin hơn là nhu cầu chính đáng.

12 kiểu phụ nữ dễ bị ung thư vú

12 kiểu phụ nữ dễ bị ung thư vú

Dân số và phát triển - 1 tuần trước

Các tế bào vú bình thường có thể trở thành ung thư do những thay đổi đột biến trong gene hoặc do một số yếu tố nguy cơ khác. Vậy ung thư vú dễ xảy ra ở những phụ nữ nào?

Top