Ba năm thực hiện chiến lược dân số VN 2001 -2010
Chiến lược Dân số Việt Nam 2001 - 2010, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 147/2000/QĐ-TTg ngày 22/12/2000; đến nay sau 3 năm triển khai thực hiện Chiến lược, đã đạt được một số kết quả như sau:
Dân số trung bình vào năm 2000 là 77,6 triệu người, đến năm 2003 ước tính là 80,7 triệu người. Như vậy bình quân mỗi năm, quy mô dân số nước ta tăng khoảng 1 triệu người. Với mức tăng này thì chúng ta sẽ đạt mục tiêu Nghị quyết Đại hội IX đề ra là quy mô dân số đến năm 2005 khoảng 83 triệu người và khoảng 88-89 triệu người vào năm 2010.
Theo dự báo, đến năm 2050 xếp thứ 15, với số dân 117 triệu người và Việt Nam trở thành một trong 16 nước có trên 100 triệu dân; lúc đó dân số Việt Nam đông hơn Nhật Bản (101 triệu dân) và gần bằng Nga (119 triệu dân). Trong khu vực Đông Nam Á, dân số Việt Nam xếp thứ 3 (sau Inđônêxia và Phi-líp-pin). Đến năm 2050 trật tự này vẫn không thay đổi. Hiện nay, mật độ dân số nước ta đã là 243 người/km2, đông hàng thứ 14 so với các quốc gia trên thế giới.
Mức sinh giảm nhanh và tiến đến gần mức sinh thay thế nhưng kết quả chưa vững chắc vẫn còn tiềm ẩn sự gia tăng dân số nhanh trở lại.
Kết quả điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình (dưới đây viết tắt là ĐTBĐDS) trong 3 năm 2000, 2001 và 2002 đã cho thấy xu hướng là những vùng/tỉnh có mức sinh cao trong cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở 1999 thì đến nay mức sinh tiếp tục giảm, nhưng ngược lại ở những vùng/tỉnh có mức sinh đã đạt hoặc tiệm cận mức sinh thay thế thì mức sinh lại nhích dần lên, làm cho mức sinh chung của cả nước tuy vẫn giảm nhưng với tốc độ giảm chậm dần, từ 19,9%o theo Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/1999 xuống còn 19,0%o theo ĐTBĐDS 1/4/2002, trung bình mỗi năm chỉ giảm được 0,225%o, chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng IX đề ra là giảm mức sinh bình quân hàng năm 0,5%o.
Tổng tỷ suất sinh (TFR) của cả nước giảm từ 2,33 con năm 1999 xuống còn 2,28 con năm 2002, trong đó TFR ở khu vực thành thị đã tăng từ 1,7 lên 1,9 con, TFR ở khu vực nông thôn đã giảm từ 2,6 xuống 2,4 con; tỷ suất sinh thô cũng tăng từ 15,9%o lên 16,9%o ở khu vực thành thị và giảm từ 21,2%o xuống 19,6%o ở khu vực nông thôn. Đến năm 2002, có 19 tỉnh có TFR đạt hoặc thấp hơn mức sinh thay thế với tổng số dân 28,29 triệu người, chiếm 35,5% dân số cả nước; 23 tỉnh có TFR từ trên 2,1 đến 2,5 con với số dân là 31,99 triệu người, chiếm 40,12% dân số cả nước; 19 tỉnh có TFR trên 2,5 con với số dân là 19,717 triệu người chiếm 24,7% dân số cả nước. Đặc biệt là khu vực nông thôn của vùng Tây Bắc và Tây Nguyên hiện vẫn có TFR ở mức rất cao - trên 3 con/phụ nữ.2
![]() |
![]() |
Chỉ số phát triển con người của Việt Nam xếp trên nhiều nước trong khu vực như Ấn Độ, Pa-ki-xtan, Mi-an-ma, Băng-la-đét. Tuy nhiên, chỉ số này vẫn ở mức trung bình thấp so với khu vực và trên thế giới.
Tuổi thọ bình quân của nước ta khá cao và tiếp tục tăng từ 66 tuổi năm 1989, lên 68 tuổi năm 1999 và tăng lên 71 tuổi năm 2002. Nhưng tuổi thọ khoẻ mạnh của nước ta lại thấp, chỉ 58,2 tuổi và xếp thứ 116 so với 174 nước trên thế giới năm 2000. Các tố chất về thể lực của người Việt Nam còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chiều cao, cân nặng và sức bền. Tỷ lệ thanh niên từ 18-22 tuổi đạt tiêu chuẩn 165cm trở lên (đối với nam) là 31,9% và 155cm (đối với nữ) là 31,9%
Đảng, chính quyền và đoàn thể các cấp đã thực sự nhận thức được tầm quan trọng của công tác DS - KHHGĐ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, coi đây là một giải pháp quan trọng để góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em đã được thành lập trên cơ sở hợp nhất Uỷ ban quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình và Uỷ ban Bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em Việt Nam. Ngày 11/11/2002, Chính phủ đã ra Nghị định số 94/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em.
Để nâng cao hiệu quả thông tin cho lãnh đạo các cấp, các tờ tin với nội dung ngắn gọn, súc tích, hình thức đẹp định kỳ đã được xuất bản. Được sự hỗ trợ của UNFPA, Uỷ ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội đã xây dựng tờ tin "Vấn đề dân số hôm nay" cung cấp miễn phí đến đại biểu dân cử các cấp.
Cùng với việc làm tốt công tác tuyên truyền vận động, chất lượng của hệ thống cung cấp dịch vụ KHHGĐ hiện có được nâng cao đáp ứng yêu cầu cung cấp dịch vụ đa dạng, an toàn, thuận tiện đã tạo điều kiện tăng nhanh số người áp dụng BPTT. 78,5% phụ nữ hiện đang có chồng đang sử dụng các BPTT. Tỷ trọng phụ nữ đang có chồng sống ở những cộng đồng có cán bộ y tế cơ sở là 96,6%, cộng tác viên DS - KHHGĐ 98,4% và đội KHHGĐ lưu động 77,3%. 66,8% phụ nữ hiện đang có chồng sống chỉ cách nơi cung cấp dịch vụ kế hoạch hoá gia đình dưới 1km và 27,3% sống trong khoảng cách từ 1 đến 4km.5
Quy mô giáo dục và mạng lưới trường lớp tiếp tục được củng cố và phát triển. Xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập trung học cơ sở được đẩy mạnh. Đã có 14 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi; 15 tỉnh, thành phố hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ học sinh lưu ban, học sinh bỏ học đã giảm dần.
Các biện pháp pháp luật bảo đảm cho sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ tiếp tục được khẳng định và phát triển trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế - dân sự, lao động, học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia hoạt động văn hoá nghệ thuật.
Dự án "Lồng ghép dân số với phát triển gia đình bền vững thông qua tín dụng-tiết kiệm và phát triển kinh tế gia đình" đã được triển khai tại 32 tỉnh, có sự tham gia của nhiều Bộ, ngành như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội. Hiệu quả của việc lồng ghép này không chỉ giới hạn ở việc cải thiện trực tiếp đời sống kinh tế, chất lượng cuộc sống cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình, đặc biệt là những gia đình nghèo, mà còn góp phần nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và cộng đồng, tạo cho họ niềm tin và khả năng tổ chức thực hiện các hoạt động tập thể.
Các mô hình chăm sóc người cao tuổi đã được triển khai thử nghiệm nhưng những định hướng chính sách của Nhà nước về vấn đề này vẫn còn hạn chế, gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện.
3.6. Đẩy mạnh xã hội hoá, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về dân số và phát triển
Pháp lệnh Dân số đã được ban hành, bảo đảm hành lang pháp lý cho việc tổ chức thực hiện công tác dân số của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, cho việc thực hiện chính sách dân số. Các bộ, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội tiếp tục được huy động và nâng cao hiệu quả sự tham gia vào công tác DS - KHHGĐ thông qua các chương trình phối hợp hoạt động dài hạn.
Việc nghiên cứu, thử nghiệm những vấn đề liên quan đến chất lượng dân số tiếp tục được đầu tư như tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm về bảo quản mô phôi, nuôi cấy tế bào và di truyền người tại một số cơ sở của ngành y tế; duy trì việc triển khai thí điểm các mô hình nâng cao chất lượng dân số ở cộng đồng và mô hình kiểm tra sức khoẻ, tư vấn tiền hôn nhân tại một số địa phương; kiểm tra sức khoẻ các bà mẹ đang mang thai để giảm thiểu trẻ sơ sinh dị dạng, dị tật.
Để thực hiện thành công những mục tiêu của Chiến lược Dân số Việt Nam 2001-2010, trong thời gian tới chúng ta cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
1. Thực hiện đồng bộ các giải pháp, tập trung mọi nỗ lực để duy trì bằng được xu thế giảm mức sinh một cách vững chắc để đạt mức sinh thay thế vào năm 2005, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức khoảng 113 triệu dân vào giữa thế kỷ XXI, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
2. Từng bước nâng cao chất lượng dân số, chăm lo bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tạo cơ sở để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3. Từng bước điều chỉnh cơ cấu dân số và phân bố dân cư phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng vùng; phù hợp với yêu cầu bảo vệ môi trường và sinh thái.
Trước mắt cần kiểm soát chặt chẽ việc duy trì cân bằng giới tính khi sinh, bảo đảm cho sự cân đối giới tính giữa nam và nữ theo quy luật tự nhiên của sinh sản, bảo đảm cho sự ổn định và phát triển xã hội lành mạnh. Có biện pháp phát triển các dịch vụ xã hội phù hợp với cơ cấu dân số già trong tương lai. Tổ chức tốt việc phụng dưỡng, chăm sóc và phát huy vai trò của người già. Gia đình phải là điểm tựa cơ bản của người già sau khi đã hết tuổi lao động.
4. Lồng ghép tốt việc giải quyết các vấn đề DS - KHHGĐ và xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; thực hiện bình đẳng giới trong phạm vi xã hội và gia đình.
Việc giải quyết các vấn đề dân số phải được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và việc thực hiện bình đẳng giới. Kết quả của việc giải quyết tốt các vấn đề gia đình, bình đẳng giới có tác động tích cực đến việc giải quyết các vấn đề dân số và ngược lại.

Ca vỡ tử cung hy hữu, thai nhi nằm trong ổ bụng, bác sĩ cứu sống hai mẹ con ngoạn mục
Dân số và phát triển - 5 giờ trướcKhoa Phụ Sản - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương vừa cứu sống sản phụ 23 tuổi đang mang thai ở tuần thứ 37 trong tình trạng vỡ tử cung hoàn toàn – biến chứng sản khoa hiếm gặp nhưng cực kỳ nguy hiểm.

Sàng lọc trước sinh - chìa khóa cho thai kỳ khỏe mạnh
Dân số và phát triển - 6 giờ trướcTrong suốt thời gian mang thai, sức khỏe của cả mẹ và bé luôn là ưu tiên hàng đầu. Để đảm bảo em bé chào đời khỏe mạnh và mẹ có một thai kỳ an toàn, sàng lọc trước sinh đóng một vai trò vô cùng quan trọng.

Mẹ bị thiếu máu khi mang thai, con có nguy cơ dị tật tim
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcThiếu máu khi mang thai có thể gây ra nhiều ảnh hưởng cho sức khỏe cả mẹ và em bé. Đặc biệt, những đứa trẻ sinh ra ở người mẹ bị thiếu máu có nguy cơ dị tật tim cao hơn.

7 thói quen gây hại tinh trùng
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcĐể có sức khỏe tinh trùng tốt nhất, nam giới nên duy trì một lối sống lành mạnh, chế độ ăn uống cân bằng, tránh các chất độc hại và tham khảo ý kiến bác sĩ nếu có bất kỳ lo ngại nào.

Từ hôm nay, vợ chồng tự quyết thời gian sinh con, số con, khoảng cách các lần sinh
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcVới 100% thành viên biểu quyết tán thành, UBTVQH chính thức thông qua sửa đổi Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số. Theo đó, từ nay người dân tự quyết thời gian sinh con, số con và khoảng cách các lần sinh.

Phụ nữ mang thai ăn dứa có nguy cơ sảy thai hay chuyển dạ sớm không?
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcDứa là loại trái cây thơm ngon, bổ dưỡng nhưng những lời đồn về dứa không an toàn đối với phụ nữ mang thai đã khiến nhiều mẹ bầu lo lắng và tránh ăn dứa.

10 dấu hiệu cảnh báo ung thư tuyến tiền liệt
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcUng thư tuyến tiền liệt là một trong những loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới. Ở giai đoạn sớm, ung thư tuyến tiền liệt không có dấu hiệu rõ ràng nên dễ nhầm lẫn với u phì đại lành tính tuyến tiền liệt.

Việt Nam đang có tốc độ già hóa nhanh nhất châu Á
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcNgười cao tuổi ở Việt Nam thường mắc trung bình 3-4 bệnh lý mạn tính khi nhập viện. Dự kiến năm 2025, nước ta sẽ có hơn 16 triệu người cao tuổi.

Khắc phục tình trạng giãn âm đạo cách nào?
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcGiãn âm đạo là một vấn đề tế nhị ảnh hưởng đến đời sống tình dục của nhiều phụ nữ. Âm đạo có nhiều hình dạng và kích thước khác nhau ở mỗi người nhưng việc tìm kiếm sự săn chắc để chị em tự tin hơn là nhu cầu chính đáng.

12 kiểu phụ nữ dễ bị ung thư vú
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcCác tế bào vú bình thường có thể trở thành ung thư do những thay đổi đột biến trong gene hoặc do một số yếu tố nguy cơ khác. Vậy ung thư vú dễ xảy ra ở những phụ nữ nào?

Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.