Bất bình đẳng giới - Nguyên nhân chủ yếu gây ra mất cân bằng giới tính khi sinh
GiadinhNet - Một trong những nguyên nhân sâu xa và mang tính quyết định dẫn tới tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh là sự tồn tại định kiến giới, tư tưởng "trọng nam khinh nữ", tệ phân biệt đối xử với phụ nữ và trẻ em gái.
Theo Liên Hợp Quốc, bình đẳng giới nghĩa là phụ nữ và nam giới được hưởng những điều kiện như nhau để thực hiện đầy đủ quyền con người. Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình là vợ chồng có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong các hoạt động của gia đình, có ý thức trách nhiệm thực hiện các quyền và nghĩa vụ một cách công bằng như quyền quyết định số con, khoảng cách sinh, việc chăm sóc và nuôi dạy con cái… Tuy nhiên, hiện nay, bất bình đẳng giới vẫn đang diễn ra từ gia đình đến cộng đồng và được coi là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng MCBGTKS.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, năm 2006, trung bình cứ 100 bé gái thì tương ứng có tới 110 bé trai được sinh ra, chính thức được xác định là mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) và từ đó, con số này cứ tăng dần, đến năm 2017, tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam vẫn ở mức 112,2 trẻ trai/100 trẻ gái. Có những nơi tỷ số giới tính khi sinh rất cao, lên đến trên 120 trẻ trai/100 trẻ gái. Thậm chí có những xã, số bé trai sinh ra gấp đôi so với số bé gái. Điều này dẫn đến rất nhiều hệ lụy đáng tiếc về sau.

hực hiện bình đẳng giới để giải quyết tận gốc vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh. Ảnh: Đ.T
Đánh giá nguyên nhân của việc mất cân bằng giới tính ngày càng gia tăng, các chuyên gia cho rằng mất cân bằng giới tính khi sinh chủ yếu là do việc ưa thích con trai và tâm lý đánh giá thấp vị trí, vai trò của phụ nữ và trẻ em gái.
Trước hết, cần nhận thấy rằng, Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo với nhiều phong tục, tập quán tạo nên khát vọng phải có con trai. Điều này gây ra áp lực không chỉ đối với mỗi đôi vợ chồng mà còn là áp lực đối với cả gia đình, dòng họ.
Mặt khác, do đặc trưng là sản xuất nông nghiệp nặng nhọc thì sự vượt trội về cơ bắp của con trai trở thành một ưu điểm khi cày cấy, chăm bón và thu hoạch. Năng suất khu vực nông nghiệp thấp cho nên cha mẹ thường không có tiết kiệm dành cho tuổi già; hệ thống an sinh xã hội chưa phát triển cho nên khi hết khả năng lao động, cuộc sống chủ yếu phải dựa vào con, nhất là con trai.
Bối cảnh nêu trên dẫn tới nảy sinh tâm lý cần có con trai giúp đỡ trong lao động, sinh hoạt và an sinh cho tuổi già. Đây chính là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến MCBGTKS. Nhu cầu có con trai có từ xa xưa, nhưng chỉ đến ngày nay, việc lạm dụng những thành tựu của khoa học và kỹ thuật cho phép con người chủ động trong sinh sản cũng là nguyên nhân dẫn đến MCBGTKS.
Chính điều này khiến câu chuyện về vài triệu đàn ông không có khả năng tìm bạn đời, rồi câu chuyện về bạo lực tình dục, mại dâm sẽ trở nên ngày càng khó đối phó hơn trong một xã hội thừa ra một lượng nam giới trong độ tuổi sinh đẻ.
Việc thiếu phụ nữ sẽ làm cho rất nhiều nam giới khó khăn trong việc tìm bạn đời để kết hôn. "Sức ép kết hôn" sẽ tạo ra những hậu quả về mặt xã hội và nhân khẩu học như gia tăng áp lực buộc các em gái phải kết hôn sớm, gia tăng đường dây buôn bán phụ nữ và các hình thức bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái, bất ổn xã hội do những thất vọng về mặt xã hội và tình dục của nam giới.
Trên thực tế, những câu chuyện về việc phụ nữ và trẻ em gái Việt Nam bị bắt cóc, bị bán sang Trung Quốc chính là những cảnh báo nhãn tiền về hệ lụy của tình trạng MCBGTKS. Bên cạnh đó, những vụ bạo lực trong mỗi gia đình liên quan đến việc phải đẻ con trai vẫn đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ tại nhiều nơi trên khắp cả nước. Theo đó, nhiều ông chồng suốt ngày chửi bới, mỉa mai, đánh đập vợ về việc không sinh được con trai. Rồi những người vợ phải chịu muôn vàn áp lực từ phía chồng cũng như gia đình nhà chồng, nào là áp lực khiến cho người vợ phải đồng ý cho người chồng đi “tìm kiếm” con trai chỗ này, chỗ kia; áp lực khiến người phụ nữ phải bỏ đi để cho anh chồng đi lấy người vợ khác cho đến việc phải chịu đựng để chồng ngang nhiên đi cặp bồ để có con trai.
Do đó, tăng cường công tác bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ và trẻ em gái vẫn là một trong các giải pháp then chốt giúp giải quyết vấn đề này.
Để nâng cao vị thế của phụ nữ và trẻ em gái, các cơ quan, tổ chức, ban ngành cần quyết liệt hơn nữa trong việc thay đổi nhận thức của người dân, làm cho họ hiểu con gái cũng có thể thờ cúng tổ tiên, nối dõi tông đường. Bên cạnh đó, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào các hoạt động của xã hội nhiều hơn để các gia đình thấy được đẻ con gái cũng vẻ vang, tuyệt vời như đẻ con trai, thậm chí còn hơn đẻ con trai. Ngoài ra, cần xây dựng các chương trình truyền thông, khung pháp lý thực sự đi sâu vào cuộc sống của người dân. Điều này đòi hỏi một sự thay đổi khá toàn diện chứ không phải là thay đổi một lĩnh vực. Đây không phải là chuyện của cá nhân mà của cả cộng đồng.
Lily (th)
Tháng Hành động quốc gia về Dân số 2025: Quảng Ninh tăng cường các hoạt động về công tác dân số và trẻ em năm 2025
Dân số và phát triển - 4 giờ trướcĐể hoàn thành các mục tiêu dân số trong năm 2025, Chi cục Dân số tỉnh Quảng Ninh đã triển khai nhiều giải pháp, tăng cường truyền thông chuyển đổi hành vi; mở rộng tư vấn và khám sức khỏe sinh sản; chú trọng chăm sóc người cao tuổi, bảo vệ trẻ em…, góp phần nâng cao chất lượng dân số trên địa bàn toàn tỉnh.
Người đàn ông 36 tuổi bị áp lực sinh con đến căng thẳng, mất cả ham muốn
Dân số và phát triển - 18 giờ trướcGĐXH - Anh Cường, 36 tuổi, nhiều lần bị gia đình thúc giục sinh con dẫn đến căng thẳng, mất ham muốn tình dục.
"Cứu' cơ hội làm cha cho người đàn ông tuổi 30: Nam giới vô sinh, thấy dấu hiệu này cần khám sớm
Dân số và phát triển - 18 giờ trướcGĐXH - Ở tuổi 30, anh Hoàng được chẩn đoán vô sinh, khả năng có con tự nhiên rất thấp do trong mẫu tinh dịch chỉ ghi nhận 1–2 tinh trùng. Nhờ được bác sĩ xây dựng phác đồ điều trị phù hợp, cơ hội làm cha của anh đã được giữ lại.
Việt Nam đối mặt với thách thức mức sinh thấp và già hóa dân số nhanh
Dân số và phát triển - 21 giờ trướcGĐXH - Theo Bộ Y tế, hiện nay tình trạng kết hôn muộn, sinh con muộn, sinh ít con hoặc không muốn sinh con ngày càng phổ biến, đặc biệt tại các đô thị và vùng có mức sinh thấp.
Quảng Ninh đẩy mạnh truyền thông dân số, hướng tới phát triển bền vững
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH - Phường Bãi Cháy, Quảng Ninh tuyên truyền nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội trong thực hiện chính sách dân số
Tháng Hành động quốc gia về Dân số 2025: Lồng ghép mục tiêu dân số, trẻ em vào phát triển KTXH
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH - Tháng Hành động quốc gia về dân số năm 2025, Hải Phòng đã chỉ đạo 6 nhiệm vụ trọng tâm, nhấn mạnh lồng ghép mục tiêu dân số, trẻ em vào phát triển KTXH..
Mức sinh trung bình mỗi phụ nữ là 1,93 con, thấp hơn mức sinh thay thế
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Thông tin trên được đưa ra tại lễ mít tinh kỷ niệm Ngày Dân số Việt Nam (26/12) và hội nghị tổng kết công tác dân số năm 2025 do Bộ Y tế tổ chức.
6 vitamin, khoáng chất thiết yếu cho răng và nướu chắc khỏe
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcBên cạnh việc vệ sinh răng miệng hàng ngày, chế độ dinh dưỡng đóng vai trò nền tảng giúp ngăn ngừa sâu răng và các bệnh lý về nướu. Tìm hiểu 6 loại vitamin và khoáng chất quan trọng giúp nuôi dưỡng răng chắc khỏe từ bên trong.
Đổi mới công tác chăm sóc người cao tuổi: Hướng tới mô hình toàn diện để 'sống khỏe, sống vui, sống có ích'
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcGĐXH - Hà Nội đang tiên phong xây dựng các mô hình chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhóm dân số đang già hóa nhanh chóng, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo dựng môi trường sống thuận lợi, sáng tạo cho người cao tuổi.
Chu kỳ kinh nguyệt ảnh hưởng thế nào đến khả năng mang thai?
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcChu kỳ kinh nguyệt đóng vai trò quyết định đối với khả năng có con, bởi vì các hormone điều khiển chu kỳ này cũng chính là những hormone giúp thụ thai và giữ thai an toàn.
Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.