Cơ hội và thách thức
GiadinhNet - Ngày 14/11/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 2013/ QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Mục tiêu của giai đoạn này không chỉ tập trung vào giảm sinh mà còn mở rộng ra các mục tiêu về qui mô, cơ cấu và chất lượng dân số
Việt Nam là quốc gia đã có bước phát triển đột phá về chương trình DS-KHHGĐ. Điều này đã đem đến kết quả khả quan trong mục tiêu nhằm sớm khống chế qui mô dân số ở mức hợp lý. Ảnh: Dương Ngọc |
Bức tranh về qui mô dân số tăng trưởng
Qua số liệu ta thấy giai đoạn 2001-2005, tỷ lệ tăng trưởng dân số giảm chậm thì mức tăng thu nhập cũng chậm, nhưng giai đoạn 2005-2010 tỷ lệ tăng trưởng dân số giảm nhanh thì mức thu nhập cũng tăng nhanh, đưa Việt Nam thoát ra khỏi các nước nghèo và thuộc vào nhóm nước có thu nhập trung bình. |
Để thực hiện đạt mục tiêu về qui mô dân số ngoài những chỉ tiêu kiểm định như tổng số dân số, mật độ dân số, qui mô hộ gia đình… các nhà nhân khẩu học thường đánh giá thông qua chỉ tiêu dự báo khoảng thời gian dân số tăng gấp đôi của từng vùng lãnh thổ, từng quốc gia.
Chỉ tiêu này sẽ cho biết qui mô dân số của một vùng sẽ tăng lên (gấp đôi hiện tại) với tốc độ như thế nào để phục vụ cho việc hoạch định các chiến lược, kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế - xã hội. Trên toàn thế giới vào năm 1990 số năm tăng gấp đôi là gần 47 năm thì 20 năm sau nhờ những thay đổi về tỷ lệ tăng dân số, số năm dân số tăng gấp đôi là trên 58 năm (tăng hơn 10 năm). Tuy vậy sự khác biệt là rất khác nhau giữa các châu lục. Thời gian tăng dân số của châu Phi năm 1990 là 27,5 năm, sau 20 năm tình hình được cải thiện nhưng cũng chỉ là 29 năm vào năm 2010.
Châu Á là châu lục hiện nay có số năm dân số tăng gấp đôi ngang bằng với mức chung của thế giới. Tuy nhiên trong thời gian những năm 1990 có tăng nhanh hơn chút ít. Song nếu xét trong từng khu vực thuộc châu Á thì cũng có độ chênh lệch nhất định.
Qua các số liệu ta thấy dân số khu vực Đông Á có mức độ phát triển tiếp cận gần nhất với xu thế của các nước đã phát triển ở châu Âu và có nhịp độ phát triển nhanh, trong khi các khu vực khác có xu thế chuyển đổi chậm. Chính sự chuyển đổi nhanh về nhân khẩu học này đã là cơ sở cho khu vực Đông Á có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội tốt nhất. Đặc biệt có những quốc gia có tốc độ phát triển thần kỳ như Nhật Bản, Hàn Quốc.
Tại Nhật Bản, do đã tiến hành thành công chương trình DS-KHHGĐ vào ngay những năm 70 của thế kỷ trước, nhờ vậy tỷ lệ phát triển dân số năm 1990 đã là 0,31 và số năm dân số tăng gấp đôi là 225,8 năm. Đến năm 2010 thì tỷ lệ phát triển dân số âm tương tự như các nước châu Âu phát triển, hiện nay đang phải thực hiện chương trình khuyến sinh. Thời gian qua Trung Quốc đã có tốc độ phát triển kinh tế thần kỳ và trở thành cường quốc đứng thứ hai thế giới, một phần quan trọng là nhờ sự quyết liệt thực hiện thành công chương trình dân số và khống chế được qui mô dân số hợp lý. Nếu năm 1990 tỷ lệ tăng dân số là 2,25 và số năm dân số tăng gấp đôi là 31,1 năm thì đến năm 2010 tỷ lệ tăng dân số chỉ là 0,5 và số năm dân số tăng gấp đôi là 140 năm.
Giữa tỷ lệ tăng trưởng về qui mô dân số (thời gian dân số tăng gấp đôi xét theo dài hạn) và kinh tế có quan hệ chặt chẽ mật thiết (đặc biệt là tổng thu nhập quốc nội tính theo đầu người). Mối quan hệ này được công nhận và đưa vào chương trình nghị sự trong hội nghị quốc tế về dân số và phát triển bền vững (ICPD 1994 tại Cairo - Ai Cập).
Theo những số liệu có được cho chúng ta thấy có mối quan hệ mật thiết giữa tăng trưởng dân số và kinh tế. Những vùng có số năm dân số tăng gấp đôi thấp (tăng dân số nhanh) thì có chỉ số PPP (thu nhập tương đương thực tế) bình quân đầu người thấp và ngược lại.
Năm 2010, số năm dân số tăng gấp đôi của toàn thế giới là 58,3 năm và mức thu nhập bình quân đầu người (tính theo PPP) là 10.000 USD. Châu Phi có số năm dân số tăng gấp đôi nhỏ nhất là 29,1 năm và mức thu nhập bình quân (tính theo PPP) là 2.630 USD. Châu Âu là nơi có số năm dân số tăng gấp đôi âm thì mức thu nhập bình quân là lớn nhất với 25.589 USD. Châu Mỹ là nơi có số năm dân số tăng gấp đôi 70 năm, mức thu nhập bình quân tương ứng là 23.370 USD. Nếu so sánh với châu Âu ta thấy chênh lệch không lớn, điều này có thể phần nào do khi dân số tăng trưởng âm, cơ cấu dân số già, nhưng chi phí về an sinh xã hội lớn sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế. Do vậy mục tiêu ổn định qui mô dân số ở mức hợp lý là mục tiêu phát triển bền vững. Châu Úc với mức tăng trưởng dân số hợp lý ở mức 63,6 năm đã có mức thu nhập bình quân là 24.380 USD. Điều này cũng còn phải tính đến các ưu đãi của tài nguyên thiên nhiên sẵn có.
Trong khu vực Đông Nam Á những nước có điều kiện kinh tế xã hội gần với Việt Nam như Indonesia số năm dân số tăng gấp đôi của 1990 từ 43,8 năm tăng lên 50 năm vào 2010 thì tương tự mức thu nhập bình quân (PPP) từ 580 USD tăng lên 3.830 USD. Tương tự của Malaysia là 30,4 năm tăng lên 43,7 năm và thu nhập là 3.400 USD tăng lên 13.740 USD. Singapore đã có bước phát triển thần kỳ với mức tăng dân số từ 24,6 năm lên 116,7 năm và thành quả tương ứng với mức thu nhập bình quân từ 29.610 USD tăng lên 47.940 USD.
Tại Việt Nam cũng có sự cải thiện rõ rệt với mức tăng trưởng dân số từ 31,8 năm tăng lên 58,3 năm và tương đương với cải thiện thu nhập từ 370 USD tăng lên 2.700 USD. Lào là nước giảm tốc độ tăng trưởng dân số chậm từ 27,9 năm tăng lên 33,3 năm thì mức độ cải thiện thu nhập tương đương là 280 USD tăng lên 2.060 USD. Philippines tuy cũng cải thiện tăng trưởng dân số chậm nhưng có xuất phát điểm tốt hơn từ 30,9 năm tăng lên 33,3 năm nên mức cải thiện thu nhập tương đương là 1.020 USD tăng lên 3.900 USD. Theo số liệu công bố của Tổng Cục Thống kê cũng cho thấy rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng qui mô dân số và thu nhập bình quân theo đầu người Việt Nam trong thập kỷ qua.
Theo kết quả của các cuộc Tổng điều tra dân số trong giai đoạn từ 1979 đến 1989 với tỷ lệ phát triển là 2,1% thì số năm dân số Việt Nam tăng lên gấp đôi là 33,3 năm. Đến giai đoạn 1989-1999 tỷ lệ phát triển dân số đã giảm xuống 1,7% thì số năm dân số tăng lên gấp đôi là 41,2 năm (tăng lên được 8 năm so với giai đoạn 10 năm trước). Đến giai đoạn 1999-2009, do thời gian này Việt Nam đạt thành công lớn về chương tình DS-KHHGĐ, tỷ lệ phát triển dân số đạt ở mức 1,2% nên số năm dân số tăng gấp đôi là 58,3 năm (tăng gần 20 năm so với giai đoạn 10 năm trước). |
Bị thủy đậu khi mang thai nguy hiểm thế nào?
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcTỷ lệ phụ nữ mang thai mắc thủy đậu không cao hơn so với mặt bằng chung tỷ lệ mắc bệnh thủy đậu ở người lớn, tuy nhiên mức độ nghiêm trọng của bệnh thường nặng nề hơn.
Nghệ An tổ chức Hội thi 'Người cao tuổi sống vui, sống khoẻ'
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Hội thi là hoạt động thiết thực nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm cho cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về người cao tuổi. Đồng thời, khẳng định vai trò, sự cống hiến của người cao tuổi đối với mọi mặt của đời sống...
Ung thư buồng trứng có chữa được không?
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcUng thư buồng trứng là căn bệnh thường tiến triển âm thầm và triệu chứng không rõ ràng khiến nhiều người chủ quan, khi đi khám đã ở giai đoạn muộn. Vậy ung thư buồng trứng có chữa được không, làm thế nào để phát hiện sớm?
Có phải trẻ béo phì dễ dậy thì sớm?
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcTrẻ béo phì có nguy cơ cao dậy thì sớm hơn so với trẻ có cân nặng bình thường. Vậy nguyên nhân tại sao trẻ béo phì lại dễ bị dậy thì sớm và có thể phòng ngừa được không?
Phụ nữ mang thai bị đa ối nên điều chỉnh chế độ ăn như thế nào?
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcĐa ối là khi lượng nước ối vượt quá mức bình thường ảnh hưởng đến sức khỏe cả mẹ và bé. Mặc dù chế độ ăn không phải là yếu tố quyết định duy nhất nhưng việc điều chỉnh chế độ ăn uống hợp lý có thể hỗ trợ cải thiện tình trạng này.
Giảm nguy cơ sinh non khi bà mẹ được quản lý thai nghén đầy đủ
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcNguy cơ sinh non sẽ được giảm thiểu tối đa nếu thai phụ được khám thai và thực hiện sinh tại cơ sở y tế có đầy đủ phương tiện kỹ thuật cùng đội ngũ y bác sỹ trợ giúp.
Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcGĐXH - Với phương châm "đưa chính sách đến gần dân," xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng (chăm sức khỏe sinh sản, hỗ trợ người cao tuổi) và phát huy vai trò của đội ngũ cộng tác viên dân số.
Bổ ích hội thi rung chuông vàng tìm hiểu kiến thức về dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcGĐXH - Hội thi giúp cho học sinh nâng cao những kỹ năng hoạt động, kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. Đồng thời, tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích để học sinh thể hiện tài năng, trí tuệ, sự sáng tạo.
Gần 150.000 em bé chào đời nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcSau 25 năm, Việt Nam có gần 300.000 chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm được thực hiện, 147.000 em bé ra đời khoẻ mạnh. Trong đó, có gần 3.000 trẻ được chào đời tại Bệnh viện Hùng Vương nhờ kỹ thuật IVF.
5 biểu hiện cho thấy bạn đã mắc hội chứng ống cổ tay
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcHội chứng ống cổ tay là tình trạng phổ biến trong cộng đồng. Hiện số người mắc hội chứng này ngày càng tăng do liên quan đến công việc có sử dụng nhiều tới độ linh hoạt, tỉ mỉ và lặp đi lặp lại của cổ tay.
Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.