Hà Nội
23°C / 22-25°C

Dân số vùng đồng bằng sông Hồng và những vấn đề đặt ra

Thứ tư, 14:52 23/11/2011 | Dân số và phát triển

Là một trong hai vùng nông thôn đồng bằng lớn ở nước ta, Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) là nơi có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu đời và có trình độ thâm canh cao.

ĐBSH có 11 tỉnh, thành: Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình và Ninh Bình.

Trên góc độ dân số và phát triển, chúng ta có thể xem xét thực trạng dân số ở vùng kinh tế này trên một số khía cạnh như sau:

 1. Quy mô dân số lớn nhất và mật độ dân số cao nhất nước

Đồng bằng sông Hồng là vùng có quy mô dân số lớn nhất và mật độ dân số cao nhất nước; cùng với Đồng bằng sông Cửu long, hai vùng này tập trung hơn 40% dân số cả nước.

Mật độ dân số của vùng, năm 1999 là 1391 người/km2 (bình quân cả nước là 232 người), cao gấp 3 lần so với Đồng bằng sông Cửu Long (466 người) - vùng có mật độ cao thứ hai và gấp hơn 18 lần so với Tây Bắc (62 người) - vùng có mật độ thấp nhất cả nước. Trong đó, Hà Nội có mật độ cao nhất khoảng 3000 người/km2, các tỉnh Hải Phòng, Hà Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình đều trên 1.000 người/km2.

Tuy nhiên, do làm tốt công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình nên tốc độ tăng dân số của vùng là thấp nhất so với các vùng khác.

 2. Cơ cấu dân số không đều, chưa hợp lý, dân số trẻ và bắt đầu có xu hướng già

Nhìn chung sự mất cân đối giới tính ở ĐBSH theo hướng nữ nhiều hơn nam, Nhưng đối với trẻ sơ sinh thì ngược lại, có biểu hiện cháu trai nhiều hơn cháu gái một cách đáng lo ngại. Theo Điều tra mức sống năm (1997-1998), tỷ số giới tính của trẻ em từ 1 đến 4 tuổi vùng ĐBSH cao nhất nước: 116, nghĩa là trong độ tuổi từ 1 đến 4, có 100 cháu gái thì có tới 116 cháu trai. Theo kết quả điều tra mẫu của Tổng Điều tra dân số năm 1999, tỷ lệ giới tính khi sinh ở hầu hết các tỉnh ĐBSH đều có biểu hiện cao, Hà Nội (thành thị) là 110, Hải Phòng (thành thị): 118, Hà Tây (thành thị): 114, Hải Dương: 120, Hà Nam: 113, Nam Định (nông thôn): 111, Thái Bình: 120, Ninh Bình:113. Những con số trên, có thể thấy đã có sự lựa chọn, can thiệp để sinh con trai và hậu quả của tình trạng mất cân đối này sẽ nặng nề như bài học đã xảy ra ở một số nước xung quanh.

ĐBSH có cơ cấu dân số trẻ nhưng đã bắt đầu già hoá. Tỷ lệ trẻ em 14 tuổi trở xuống là 30,2% (ở các nước phát triển là khoảng 20%, Nhật là 15%). Tuy nhiên, tỷ lệ người cao tuổi (60 tuổi trở lên) ở ĐBSH đã chiếm khoảng 10%, nghĩa là đã bắt đầu vào “ngưỡng già”. Tỷ số phụ thuộc (số trẻ em dưới 15 tuổi và người già 60 tuổi trở lên so với số người tuổi từ 15 đến 59) ở nước ta không ngừng giảm xuống, năm 1979 là 0,95; năm 1989: 0,86; năm 1999: 0,7; riêng ở ĐBSH là 0,67. Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá đây là “cơ cấu dân số vàng”, tức là nó sẽ tạo điều kiện cho phát triển kinh tế xã hội, kinh tế gia đình, tiết kiệm đầu tư phát triển. Đi sâu một chút, chúng ta lại thấy tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị của ĐBSH lại cao nhất nước, chứng tỏ còn thiếu nhiều việc làm cho cả thành thị và nông thôn.

Tỷ lệ dân đô thị thấp. Mặc dù có hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng, nhưng tỷ lệ đô thị chỉ có 19,6% thấp hơn mức trung bình của cả nước (23,7%). Nhiều tỉnh, tỷ lệ dân số đô thị chưa đến 10% như Thái Bình: 5,6%, Hà Nam: 6%, Hà Tây: 7,8%. Quá trình công nghiệp hoá sẽ kéo theo đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ, đô thị sẽ mở rộng và dân số trong khu vực đô thị sẽ tăng lên.          

3. Chất lượng dân số chưa cao

Đây cũng là vùng có trình độ phát triển cao thứ hai của đất nước. Năm 1999, Chỉ số phát triển con người (HDI) của cả vùng là 0,723 chỉ đứng sau Đông Nam Bộ (0,751). Năm 1999, số hộ nghèo là 21,58%, thứ hai sau Đông Nam Bộ (20,12%), mức bình quân cả nước là 28,21%. Tuy nhiên, tỷ lệ suy dinh dưỡng của người lớn khoảng 65% với nam và 38% với nữ (điều tra mức sống 1997-1998). Năm 1999, trẻ em dưới 5 tuổi có tỷ lệ suy dinh dưỡng cân nặng/tuổi là 33,8%, suy dinh dưỡng chiều cao/tuổi là 35,4%, suy dinh dưỡng cả cân nặng, chiều cao/tuổi là 10,8%. Tỷ lệ dân số 15 tuổi trở lên tốt nghiệp phổ thông cơ sở cao nhất so với các vùng, nhưng cũng chỉ mới đạt 87% đối với nam và 75,3% đối với nữ. Tỷ lệ dân số 15 tuổi trở lên có chuyên môn kỹ thuật rất thấp: nam 14%, nữ 8,9%; nhiều tỉnh có tỷ lệ này dao động khoảng 5-8%. Những con số trên cho thấy bất bình đẳng giới trong giáo dục và đào tạo khá rõ nét.

Tổng điều tra dân số năm 1979: tổng tỷ suất sinh (số con trung bình của phụ nữ, tính đến hết tuổi sinh đẻ) ở ĐBSH là 2,0: Thành thị là 1,7 và nông thôn là 2,1. Có thể thấy, ĐBSH đã đạt mức sinh thay thế, nhưng SKSS cũng đang có nhiều điều đáng chú ý cần phải quan tâm:

- Tỷ lệ phá thai ở ĐBSH năm 1977 là 35,5%, vào loại cao thứ hai so với các vùng trong nước (miền núi phía Bắc: 39,7%; Bắc Trung Bộ: 10,6%;Duyên hải miền Trung: 1,8%; Tây Nguyên:9,1%; Đông Nam Bộ: 17,1%; đồng bằng sông Cửu long: 14,6%).

 - Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại ở ĐBSH là cao nhất so các vùng, nhưng tỷ lệ phá thai vẫn cao. Có tới 26,28% bà mẹ không khám thai.

 - Số người bị nhiễm HIV/AIDS tính trên 100.000 dân ở ĐBSH bằng 2/3 mức trung bình của cả nước (1998) nhưng do mật độ dân số cao gấp 5 lần mật độ chung nên khả năng có nguy cơ lan rộng nhanh là lớn hơn so các vùng.

 4. Phân bổ dân cư chưa hợp lý

Cũng như vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Dân số ĐBSH tập trung ở lưu vực các con sông lớn có đất đai mầu mỡ và có nước canh tác.

Ở ĐBSH, di dân nội vùng diễn ra mạnh mẽ nhưng di dân mgoại vùng lại yếu ớt. Năm 2001, tỷ suất nhập cư của ĐBSH chỉ có 4,27 %o, trong khi đó ở Đông Nam Bộ lên tới 14,75%o, ở Tây Nguyên là 14,4%o. Như vậy sức hút của ĐBSH không mạnh như Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, do đó, tỷ suất di cư thuần tuý là - 0,48%o, mức biến động cơ học thấp nhất trong cả nước. Tuy nhiên, nếu xét trong từng tỉnh thì Hà Nội có tỷ suất nhập cư tới 31,82%o, cao hơn cả thành phố Hồ Chí Minh 25,67%o, chỉ đứng sau Bình Dương 35,25%o. Các tỉnh khác trong vùng như Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình đều thuộc nhóm tỉnh có tỷ lệ cao nhất nước.
 
5. Gia đình và trẻ em có nhiều thách thức

Gia đình ĐBSH có quy mô nhỏ nhất so với các vùng khác. Quy mô trung bình một gia đình Việt Nam, năm 1979 là 5,2 người, năm 1999 chỉ còn 4,7; riêng ĐBSH chỉ còn 4,1. Sự phát triển của thị trường, quá trình đô thị hoá ngày càng mở rộng, hội nhập quốc tế và giao lưu văn hoá được diễn ra mạnh mẽ đang đặt gia đình trước những thách thức mới mà hậu quả là tính ổn định, bền vững giảm đi. Số vụ ly hôn không ngừng tăng lên. Trên phạm vi toàn quốc, nếu giai đoạn 1977-1982, bình quân mỗi năm chỉ có 5.672 vụ ly hôn thì đến năm 2000 đã có tới 51.361 vụ, tăng 9 lần. Vùng ĐBSH cũng không nằm ngoài xu hướng đó.

Trẻ em làm trái pháp luật tăng lên là nỗi nhức nhối của gia đình và xã hội. Theo thống kê, trên cả nước, số trẻ em vào trường giáo dưỡng và số bị khởi tố hình sự có xu hướng không ngừng tăng lên, từ 533 năm 1996 tăng lên 1360 năm 1998 và 1467 năm 2000. Số bị khởi tố hình sự giai đoạn 1990-1994, trung bình mỗi năm có 2.500 người chưa thành niên bị khởi tố chiếm 3,4% trong tổng số tội phạm bị khởi tố, thì giai đoạn 1995-1998, những con số tương ứng là 4.600 và 11,3% (không kể số trẻ em hư và lang thang). ĐBSH có số trẻ em làm trái pháp luật đứng hàng thứ ba trong vùng (sau Đông Nam Bộ và ĐBSCL). Nhưng nếu tính theo mật độ thì ĐBSH lại đứng đầu bảng và gấp từ 1,5 đến 1,7 hai vùng nói trên. Rõ ràng, khi KHHGĐ được chú ý và kinh tế phát triển, số con ít đi, mức sống tăng lên, thì nhiệm vụ trọng tâm và nặng nề của các gia đình đã chuyển từ nuôi con sang dạy con, từ chăm sóc thể chất chuyển sang chăm sóc về trí tuệ và tinh thần.

Từ thực trạng dân số như đã nêu trên, có thể nêu ra một số vấn đề cần quan tâm đối với vùng ĐBSH như sau:

1. Thứ nhất, Các tỉnh ĐBSH phải coi trọng đẩy mạnh phát triển kinh tế. Có thể thấy, trình độ phát triển ĐBSH khá và hoàn toàn đạt được mục tiêu mà Chiến lược Dân số Việt Nam, giai đoạn 2001 - 2010 đề ra là đạt Chỉ số phát triển con người ở mức trung bình tiên tiến của thế giới vào năm 2010. Tuy nhiên, trình độ phát triển khá ở ĐBSH chủ yếu là do các thành tựu về bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ và giáo dục còn phát triển kinh tế thì ở dưới mức trung bình (chỉ số giáo dục là 0,81, chỉ số sức khoẻ là 0,89 và chỉ số kinh tế là 0,48). Đây là vùng có nhiều tiềm năng, vùng kinh tế trọng điểm, bởi vậy, các tỉnh phải tập trung sức phát triển kinh tế mạnh mẽ hơn nữa. Tận dụng cơ cấu dân số vàng để phát triển kinh tế. Phải lồng ghép các yếu tố đân số trong quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

2. Thứ hai, Các chính sách phát triển ở ĐBSH phải hướng mạnh tới đa dạng hoá ngành nghề, chuyển đổi cơ cấu lao động, di chuyển lao động ra khỏi vùng. Thực hiện tốt việc điều chỉnh quy mô dân số, như Pháp lệnh Dân số (PLDS) đã quy định.

3.Thứ ba, Cần sớm thực hiện việc phân bổ dân cư hợp lý giữa các khu vực, vùng địa lý kinh tế và các đơn vị hành chính để khai thác tốt nhất tiềm năng đất đai, tài nguyên, giảm tải sức ép dân số quá mạnh ở ĐBSH.

4. Thứ tư, Cần có kế hoạch mở rộng phát triển Hà Nội, Hải Phòng và các khu công nghiệp, khu đô thị mới để chủ động đón dòng di cư đến, đồng thời kết hợp xây dựng đô thị vừa và nhỏ, tạo điều kiện phân bố dân cư hợp lý. Cần dự báo tình hình mở rộng đô thị và quy mô dân số trong khu vực này. Tính đến các dự báo dân số trong quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, nhất là quy hoạch xây dựng để tránh những tổn thất do quy hoạch sai lầm gây ra.

5. Thứ năm, Cần đẩy mạnh việc chuyển từ KHHGĐ sang chăm sóc SKSS toàn diện. Trước hết là giảm phá thai, ngăn chặn các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, HIV/AIDS. Cần phổ biến, hướng dẫn chi tiết và thực hiện PLDS như cấm lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức, đẩy mạnh việc cung cấp dịch vụ tư vấn dân số và phát triển mạng lưới dịch vụ chăm sóc SKSS...
 
6. Thứ sáu, Đẩy mạnh phát triển kinh tế gia đình và tăng cường tuyên truyền tư vấn hướng dẫn, giáo dục về cuộc sống gia đình để gia đình ngày càng bền vững. Nghiêm chỉnh thực hiện PLDS, đồng thời, tăng cơ sở pháp lý, giáo dục văn hoá ly hôn. Chuyển mục tiêu mỗi gia đình có 2 con sang mục tiêu 2 con chất lượng cao. Cần tuyên truyền giáo dục cho các bậc cha mẹ thấy được ý nghĩa của bước chuyển này và tư vấn cho họ có kỹ năng thực hiện việc giáo dục con cái.
 
Theo Tạp chí Dân số & Phát triển (số 7/2004), website Tổng cục Dân số & KHHGĐ
kimngan
Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn
Mổ cấp cứu lấy thai cho người phụ nữ nặng 178kg

Mổ cấp cứu lấy thai cho người phụ nữ nặng 178kg

Dân số và phát triển - 11 giờ trước

Sản phụ 28 tuổi nặng 178kg, nhiều bệnh lý thai kỳ nguy hiểm, được chuyển viện cấp cứu trong tình trạng nguy cơ cao cho cả mẹ và thai nhi.

Căng não chạy đua với thời gian cứu mẹ con sản phụ nặng 178kg, mắc nhiều bệnh lý nguy hiểm

Căng não chạy đua với thời gian cứu mẹ con sản phụ nặng 178kg, mắc nhiều bệnh lý nguy hiểm

Dân số và phát triển - 15 giờ trước

GĐXH - Theo các bác sĩ, với cân nặng lớn kèm theo bệnh lý tiền sản giật và đái tháo đường, việc sinh thường gần như bất khả thi. Ngay cả lựa chọn sinh mổ cũng tiềm ẩn hàng loạt nguy cơ nguy hiểm.

Hà Nội tổ chức tập huấn Hệ thông tin quản lý chuyên ngành Dân số MIS2025RS, phục vụ triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp

Hà Nội tổ chức tập huấn Hệ thông tin quản lý chuyên ngành Dân số MIS2025RS, phục vụ triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

GĐXH - Sáng ngày 14/8, Chi cục Dân số, Trẻ em và Phòng, chống Tệ nạn xã hội Hà Nội đã tổ chức Lớp tập huấn Hệ thông tin quản lý chuyên ngành Dân số MIS2025RS – phiên bản phục vụ triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp năm 2025.

Đau lòng: Sản phụ mất con vì chọn 'ngày đẹp, giờ đẹp' sinh mổ chủ động

Đau lòng: Sản phụ mất con vì chọn 'ngày đẹp, giờ đẹp' sinh mổ chủ động

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

GĐXH - Sau khi được mổ đẻ chủ động ở tuần 37, trẻ có biểu hiện suy hô hấp, không đáp ứng với các biện pháp điều trị và không qua khỏi.

Nghẹt thở hành trình vừa giữ con vừa bảo toàn tính mạng cho sản phụ mắc ung thư cổ tử cung

Nghẹt thở hành trình vừa giữ con vừa bảo toàn tính mạng cho sản phụ mắc ung thư cổ tử cung

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

GĐXH - Khi nghe bác sĩ chẩn đoán bị ung thư cổ tử cung, chị L. hoang mang, sợ hãi tột độ. Chị chỉ nghĩ đến em bé trong bụng, liệu con có cơ hội sống? Liệu mình có kịp nhìn thấy con lúc chào đời?...

Giới trẻ đang lười yêu, ngại cưới, sinh con muộn và những hệ lụy nghiêm trọng về sau

Giới trẻ đang lười yêu, ngại cưới, sinh con muộn và những hệ lụy nghiêm trọng về sau

Dân số và phát triển - 3 ngày trước

GĐXH - Kết hôn muộn, ngại sinh con đang ngày càng phổ biến ở nước ta. Đây là thực tế rất đáng báo động bởi không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dân số mà còn kéo theo hệ lụy nghiêm trọng tới sự phát triển bền vững của đất nước.

Nam nhân viên văn phòng lở loét toàn thân vì quan hệ tình dục bừa bãi

Nam nhân viên văn phòng lở loét toàn thân vì quan hệ tình dục bừa bãi

Dân số và phát triển - 3 ngày trước

TPO - Người bệnh thú nhận, anh từng có quan hệ tình dục đồng giới với nhiều bạn tình khác nhau và đều không sử dụng bao cao su. Theo các bác sĩ, đây không phải là trường hợp hiếm gặp khi thực tế số ca giang mai đang có xu hướng gia tăng trở lại, đặc biệt ở nhóm nam có quan hệ tình dục đồng giới.

Những điều các cặp vợ chồng nên biết trước khi sinh con để không phải nói 2 từ: 'Giá như'

Những điều các cặp vợ chồng nên biết trước khi sinh con để không phải nói 2 từ: 'Giá như'

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

GĐXH – Theo các bác sĩ, mọi thai kỳ đều có nguy cơ rủi ro, vì vậy, tất cả các cặp vợ chồng đều nên đi khám sức khỏe sinh sản trước khi sinh con. Đây là con đường thiết thực và nhân văn để ngăn ngừa gánh nặng bệnh tật di truyền cho các thế hệ sau.

Trầm cảm sau sinh: Kẻ thù thầm lặng đe dọa sức khỏe mẹ và bé

Trầm cảm sau sinh: Kẻ thù thầm lặng đe dọa sức khỏe mẹ và bé

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

Làm mẹ là một hành trình ngọt ngào nhưng cũng đầy gian nan. Sau những giờ phút vượt cạn, điều người mẹ cần không chỉ là nghỉ ngơi để phục hồi thể chất mà còn là sự chăm sóc cho sức khỏe tinh thần. Theo đó, trầm cảm sau sinh là kẻ thù thầm lặng, để lại những hậu quả nghiêm trọng cho cả mẹ và bé.

Top