Hàn Quốc: Hệ lụy của mức sinh quá thấp
GiadinhNet - Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều nét tương đồng. Bối cảnh về công tác dân số Việt Nam hiện nay khá giống với những gì mà Hàn Quốc phải đối mặt vào những thập kỷ 80, 90 như mức sinh thấp (đang xảy ra ở một số địa phương), mất cân bằng giới tính khi sinh, già hóa dân số, dân số và phát triển. Những chính sách ứng phó của chính phủ Hàn Quốc trong giai đoạn này là những bài học kinh nghiệm quý báu đối với chúng ta..

Chưa kịp mừng đã vội lo
Theo Báo cáo số liệu dân số thế giới năm 2014 của Văn phòng Tham chiếu Dân số Hoa Kỳ, dân số Hàn Quốc hiện nay là 50,4 triệu người. Số con trung bình trên một phụ nữ Hàn Quốc trong độ tuổi sinh đẻ hiện nay chỉ có 1,2 con, thuộc hàng thấp nhất thế giới (năm 2014, trên thế giới có Đài Loan, HongKong, Andorra có số con trung bình/phụ nữ 15-49 là 1,1 con). Các nhà khoa học Hoa Kỳ dự báo đến năm 2050, dân số Hàn Quốc còn khoảng 48,1 triệu người. Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra lời cảnh báo làm chấn động người dân xứ sở kim chi là: “Vào năm 2750, người Hàn Quốc sẽ biến mất khỏi thế giới” ?!). Nguyên nhân cũng chỉ bởi mức sinh quá thấp!
Sau đại chiến thế giới lần thứ 2 và đặc biệt là sau chiến tranh Nam-Bắc Triều Tiên (1950-1953), mức sinh và mức chết của Hàn Quốc rất cao. Năm 1960, trung bình mỗi phụ nữ độ tuổi sinh đẻ có 6,0 con (Việt Nam khi đó khoảng 6,4 con/phụ nữ), tốc độ gia tăng dân số vào khoảng 3%/năm. Năm 1962, Chính phủ Hàn Quốc chính thức bắt đầu chương trình DS-KHHGĐ của mình với mục tiêu phát triển kinh tế và giảm mức sinh. Sau 21 năm (năm 1983) , Hàn Quốc đạt mức sinh thay thế với trung bình 2,1 con/phụ nữ 15-49 (Việt Nam cũng là một trong ít nước trên thế giới sớm thực hiện chương trình DS-KHHGĐ, từ 1961, nhưng do cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài đến tận năm 1975 nên phải đến năm 2006, Việt Nam mới đạt mức sinh thay thế (2,1 con), tức sau 45 năm).
Tuy nhiên, ngay sau khi đạt mức sinh thay thế, mức sinh của Hàn Quốc đã “tuột dốc” đến chóng mặt. Ngay trong thập kỷ 80 đó, mức sinh của Hàn Quốc xuống còn khoảng 1,8-1,6 con. Thập kỷ 90 xuống còn 1,6-1,4 con và những năm 2000s xuống dưới mức 1,4 con. Năm 2001 mức sinh của Hàn Quốc cán mốc 1,3 con, mức sinh mà các nhà nhân khẩu học châu Âu gọi là mức thấp nhất (từ 1,3 con trở xuống). Năm 2005 xuống còn có 1,08 con và đến nay là 1,2 con.
Như vậy, để đạt mức sinh thay thế là rất lâu. Hàn Quốc- một trong những quốc gia có sự phát triển kinh tế-xã hội thần kỳ, là thành viên của OECD, cũng phải mất 21 năm. Nhưng để giữ được mức sinh thay thế hoặc mức sinh trong khoảng 1,8-2,1 con thì lại là điều vô cùng khó. Hàn Quốc chưa cần đến 3 năm đã trượt ra ngoài khoảng mức sinh lý tưởng đó. Ngay sau đó, Chính phủ Hàn Quốc đã phải đưa ra một loạt chính sách nhằm cứu vãn mức sinh trở lại.
Ứng phó của Chính phủ xứ kim chi
Có nhiều nguyên nhân để dẫn đến việc mức sinh của Hàn Quốc tuột dốc nhanh và ở mức thấp rất nghiêm trọng như vậy. Những tác động của mức sinh thấp sẽ dẫn đến những thay đổi căn bản đối với sự phát triển kinh tế-xã hội bởi dân số là cái gốc và nền tảng của sự phát triển. Suy cho cùng mọi sự phát triển cũng vì con người. Như các nhà lãnh đạo Hàn Quốc đã dùng hình ảnh mạnh mẽ để cảnh báo về hệ lụy của vấn đề này là “Người Hàn Quốc sẽ biến mất trên bản đồ thế giới vào năm 2750”.
Đầu thập kỷ 80, sau khi đạt mức sinh thay thế và tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai cao, Chính phủ đã chuyển hướng chính sách về cung cấp phương tiện tránh thai nhằm hướng đến một thị trường tự do về phương tiện tránh thai trong đó có vai trò tích cực của lĩnh vực tư nhân và các kênh thương mại. Cùng với chính sách về thị trường tự do phương tiện tránh thai, Hàn Quốc cũng phát triển, mở rộng các chương trình bảo hiểm y tế. Năm 1989, Hàn Quốc chính thức dừng chính sách miễn phí phương tiện tránh thai, tức sau 6 năm đạt mức sinh thay thế (lúc này, số con trung bình/phụ nữ 15-49 của Hàn Quốc là 1,5 con).
Vào lúc này, lĩnh vực dân số của Hàn Quốc lại phải đối mặt với vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh với việc lạm dụng các công nghệ khoa học kỹ thuật để lựa chọn giới tính thai nhi. Một vấn đề khác là tỷ trọng dân số cao tuổi ngày một tăng nhanh. Trước tình hình đó, chính phủ Hàn Quốc đã phải nhóm họp nhằm đưa ra những quyết sách quan trọng không chỉ giải quyết các vấn đề đặt ra đối với công tác dân số mà còn đáp ứng yêu cầu vẫn đảm bảo duy trì sự phát triển kinh tế-xã hội hay nói cách khác là giải quyết vấn đề dân số và phát triển.
Tháng 12 năm 1994, Ủy ban chuyên trách xây dựng Chính sách Dân số (Population Policy Deliberation Committee) của Chính phủ Hàn Quốc đã được thành lập nhằm nghiên cứu lại toàn bộ các chính sách dân số của Hàn Quốc, những vấn đề thách thức của công tác dân số Hàn Quốc hiện nay, xem xét mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế-xã hội nhằm định hướng các chính sách dân số và phát triển kinh tế-xã hội trong thế kỷ 21. Từ đó, một loạt cách chính sách tích cực về dân số của Hàn Quốc đã ra đời.
Năm 1996, chính sách mới về dân số của Hàn Quốc được ra đời trong đó nhấn mạnh đến các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản nhằm nâng cao chất lượng dân số. Năm 2003, Ủy ban về Già hóa dân số và Xã hội tương lai được thành lập. Hai năm sau, năm 2005, Luật về mức sinh thấp và xã hội già hóa đã được ban hành. Trên cơ sở của đạo luật này, các chương trình hành động đã ra đời với 3 giai đoạn: Giai đoạn I: 2006-2010; giai đoạn II: 2011-2015; giai đoạn III: 2016-2020.
Những chương trình chính sách trên nhằm giảm các áp lực về kinh tế-xã hội cho việc sinh con và nuôi dạy con như miễn/giảm chi phí y tế khi mang thai, sinh con, hỗ trợ dinh dưỡng, hỗ trợ thu nhập đối với những gia đình khó khăn, miễn giảm chi phí học tập của con, hỗ trợ việc làm/thu nhập của cha mẹ, các dịch vụ chăm sóc y tế. Các chương trình chính sách không chỉ hỗ trợ cho cha mẹ và đứa trẻ mà còn hỗ trợ các thành viên khác trong gia đình, hỗ trợ và xây dựng môi trường thân thiện, nhưng trước đó là khuyến khích nam nữ kết hôn, và sinh con. Những chương trình về giới và bình đẳng giới cũng không thể thiếu trong các chính sách này.
Có thể nói, những chính sách mà chính phủ Hàn Quốc đưa ra nhằm cứu vãn mức sinh để đẩy mức sinh tăng lên; tạo nền tảng ổn định cho sự phát triển kinh tế-xã hội và để xây dựng một xã hội già hóa thịnh vượng, thân thiện. Hiện tại, chính phủ Hàn Quốc đã chi 19 tỷ won cho các chương trình này.
Mặc dù chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra nhiều chính sách khuyến khích nhằm vực dậy mức sinh nhưng những số liệu từ Văn phòng thống kế Hàn Quốc cho thấy, tổng tỷ suất sinh của nước này vẫn dao động ở mức 1,2-1,29 con trong những năm gần đây. Hàn Quốc mất 2 thập kỷ để đạt mức sinh thay thế và là nước duy nhất hiện nay trên thế giới thành công trong việc đưa tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trở lại mức tự nhiên sau hơn 2 thập kỷ. Những thích ứng với mức sinh thấp nhằm xây dựng xã hội ổn định, văn minh, tạo nền tảng vững chắc cho xã hội có dân số già nói riêng và những bước tiến thần kỳ trong phát triển kinh tế nói chung của Hàn Quốc đã và đang được nhiều nước trên thế giới quan sát, học tập.
ThS. Lương Quang Đảng

Nạo phá thai tuổi vị thành niên: Những trăn trở suốt hơn 2 thập kỷ của bác sĩ sản khoa
Dân số và phát triển - 1 giờ trướcGĐXH – Suốt hơn 25 năm gắn bó với nghề, bác sĩ Nguyễn Thị Thảo đã từng đối mặt với không ít trường hợp nạo phá thai ở tuổi vị thành niên. Mỗi ca bệnh là một mảnh đời đầy trăn trở, để lại trong bà những nỗi day dứt, xót xa mỗi khi nhớ lại.

Thạc sĩ sinh con không cắt dây rốn, ngâm nhau trong muối, viêm phổi không cho tiêm
Dân số và phát triển - 10 giờ trướcTin theo trào lưu sinh con “thuận tự nhiên” tại nhà, sản phụ ở Đồng Nai từ chối can thiệp y tế, giữ nguyên dây rốn, khiến bé trai sơ sinh có dấu hiệu viêm phổi.

Ca vỡ tử cung hy hữu, thai nhi nằm trong ổ bụng, bác sĩ cứu sống hai mẹ con ngoạn mục
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcKhoa Phụ Sản - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương vừa cứu sống sản phụ 23 tuổi đang mang thai ở tuần thứ 37 trong tình trạng vỡ tử cung hoàn toàn – biến chứng sản khoa hiếm gặp nhưng cực kỳ nguy hiểm.

Sàng lọc trước sinh - chìa khóa cho thai kỳ khỏe mạnh
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcTrong suốt thời gian mang thai, sức khỏe của cả mẹ và bé luôn là ưu tiên hàng đầu. Để đảm bảo em bé chào đời khỏe mạnh và mẹ có một thai kỳ an toàn, sàng lọc trước sinh đóng một vai trò vô cùng quan trọng.

Mẹ bị thiếu máu khi mang thai, con có nguy cơ dị tật tim
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcThiếu máu khi mang thai có thể gây ra nhiều ảnh hưởng cho sức khỏe cả mẹ và em bé. Đặc biệt, những đứa trẻ sinh ra ở người mẹ bị thiếu máu có nguy cơ dị tật tim cao hơn.

7 thói quen gây hại tinh trùng
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcĐể có sức khỏe tinh trùng tốt nhất, nam giới nên duy trì một lối sống lành mạnh, chế độ ăn uống cân bằng, tránh các chất độc hại và tham khảo ý kiến bác sĩ nếu có bất kỳ lo ngại nào.

Từ hôm nay, vợ chồng tự quyết thời gian sinh con, số con, khoảng cách các lần sinh
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcVới 100% thành viên biểu quyết tán thành, UBTVQH chính thức thông qua sửa đổi Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số. Theo đó, từ nay người dân tự quyết thời gian sinh con, số con và khoảng cách các lần sinh.

Phụ nữ mang thai ăn dứa có nguy cơ sảy thai hay chuyển dạ sớm không?
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcDứa là loại trái cây thơm ngon, bổ dưỡng nhưng những lời đồn về dứa không an toàn đối với phụ nữ mang thai đã khiến nhiều mẹ bầu lo lắng và tránh ăn dứa.

10 dấu hiệu cảnh báo ung thư tuyến tiền liệt
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcUng thư tuyến tiền liệt là một trong những loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới. Ở giai đoạn sớm, ung thư tuyến tiền liệt không có dấu hiệu rõ ràng nên dễ nhầm lẫn với u phì đại lành tính tuyến tiền liệt.

Việt Nam đang có tốc độ già hóa nhanh nhất châu Á
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcNgười cao tuổi ở Việt Nam thường mắc trung bình 3-4 bệnh lý mạn tính khi nhập viện. Dự kiến năm 2025, nước ta sẽ có hơn 16 triệu người cao tuổi.

Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.