Hà Nội
23°C / 22-25°C

Hậu quả khôn lường từ hôn nhân cận huyết

Thứ hai, 08:06 12/12/2022 | Dân số và phát triển

Hôn nhân cận huyết là tình trạng vẫn còn tồn tại ở các vùng dân tộc thiểu số miền núi. Đây cũng là nguyên nhân suy giảm chất lượng dân số trầm trọng, nguy cơ sinh ra con dị tật, mang nhiều bệnh di truyền.

Tỷ lệ hôn nhân cận huyết vùng dân tộc thiểu số vẫn còn cao

Trong những năm qua, tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống đã gây những ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe bà mẹ, trẻ em; làm suy giảm chất lượng dân số; ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực và là một trong những lực cản đối với sự phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) và sự phát triển bền vững của vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi.

Theo kết quả Tổng điều tra thực trạng KT-XH của 53 DTTS, tổng dân số người DTTS nước ta là 14,1 triệu người, gần 3 triệu hộ (chiếm 14,7% dân số cả nước); cư trú thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố, 548 huyện, 5.266 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 382 xã biên giới. Địa bàn cư trú chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ và Tây Duyên hải miền Trung, chiếm 3/4 diện tích cả nước.

Hậu quả khôn lường từ hôn nhân cận huyết - Ảnh 2.

Ảnh minh họa

Sau 5 năm thực hiện Đề án "Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng DTTS giai đoạn 2015-2025" (Đề án 498), tỷ lệ tảo hôn trong vùng DTTS có xu hướng giảm dần. Theo dân tộc, tỷ lệ tảo hôn cao nhất là Mông (51,5%), Cơ Lao (47,8%), Mảng (47,2%), Xinh Mun (44,8%), Mạ (39,2%). Theo giới tính, tỷ lệ tảo hôn của nữ DTTS năm 2018 vẫn cao hơn so nam DTTS (năm 2018: nam 20,1% và nữ 23,5%). So với năm 2014, tỷ lệ tảo hôn của nam DTTS đã giảm được 5,9%, cao hơn so với mức giảm tương ứng của nữ DTTS là 3,6% (năm 2014: nam 26,0% và nữ 27,1%). Tỷ lệ tảo hôn của nữ DTTS luôn cao hơn nam ở tất cả các vùng, ngoại trừ Đồng bằng sông Hồng.

Tỷ lệ kết hôn cận huyết trong vùng DTTS có xu hướng giảm nhưng không đáng kể. Tỷ lệ người DTTS kết hôn cận huyết thống năm 2018 là 5,6%, giảm 0,9% so với năm 2014 (6,5%). Theo giới tính, tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống năm 2018 của nam DTTS là 5,29%, giảm 1,26% so với năm 2014 là 6,55%; và tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống của nữ DTTS năm 2018 là 5,87%, giảm 0,5% so với năm 2014 là 6,37%.

Tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống cao nhất năm 2018 gồm Mnông 37,7%, (nam 40,57% và nữ 35,38%), La Chí 30,8% (nam 27,43% và nữ 33,64%), Bru Vân Kiều 28,6% (nam 28,81% và nữ 28,41%), Cơ Tu 28,0% (nam 10,92% và nữ 43,21%) và Lô Lô 22,4% (nam 25,41% và nữ 20,02%).

Tình trạng kết hôn cận huyết thống của người DTTS đã giảm nhưng vẫn tăng cao ở một số dân tộc. Một số DTTS có tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống cao năm 2014, đến năm 2018 đã không còn tình trạng này như Mạ, Mảng, Cơ Ho, Kháng, Chứt. Tuy nhiên, năm 2018 cũng ghi nhận sự gia tăng của tỷ lệ kết hôn cận huyết thống ở một số DTTS như: La Chí (tăng từ 10,1% năm 2014 lên 30,8% năm 2018), Bru Vân Kiều (tăng từ 14,3% năm 2014 lên 28,6% năm 2018), Lô Lô (tăng từ 8,3% năm 2014 lên 22,4% năm 2018), Gia Rai (tăng từ 9,1% năm 2014 lên 14,6% năm 2018) và La Ha (tăng từ 7,6% năm 2014 lên 11,0% năm 2018).

Hôn nhân cận huyết dễ sinh ra trẻ nhiều bệnh tật

Y học đã chứng minh tác hại của những cặp hôn nhân cận huyết: Những cặp vợ chồng khỏe mạnh lại có thể sinh con dị dạng hoặc mang bệnh tật di truyền như: mù màu (không phân biệt được màu đỏ và màu xanh), bạch tạng, da vảy cá...

Giải thích hiện tượng này, di truyền học cho biết, mọi đặc điểm trên cơ thể đều được quy định bởi gene, kể cả trường hợp bệnh lý. Cơ thể mỗi người có khoảng 500-600 nghìn gene, trong số đó không tránh khỏi có dăm bảy gene lặn bệnh lý, chưa có điều kiện bộc lộ gây tác hại.

Gene lặn bệnh lý tồn tại dai dẳng trong dòng họ từ thế hệ này qua thế hệ khác. Nếu cuộc hôn nhân được tiến hành với người khác dòng họ thì nguy cơ bệnh bộc phát thường không cao. Trái lại, hôn nhân cận huyết chính là điều kiện thuận lợi cho những gene lặn bệnh lý tương đồng gặp gỡ nhau, sinh những đứa con bệnh tật hoặc dị dạng di truyền.

Hậu quả khôn lường từ hôn nhân cận huyết - Ảnh 3.

Ảnh minh họa

Ở những quần thể dân cư nhỏ sống biệt lập (không có điều kiện kết hôn rộng ra với các quần thể dân cư khác), các bệnh tật di truyền bẩm sinh rất cao. Tại Việt Nam, các điều tra cho thấy một số bệnh di truyền thường có tỷ lệ cao hơn ở các dân tộc ít người. Có thể do tập quán và điều kiện địa lý cách trở khiến các cuộc hôn nhân của họ bị bó hẹp trong một quần thể dân cư nào đó.Hôn nhân cận huyết là cuộc hôn nhân xảy giữa hai người cùng chung dòng máu trực hệ của một gia đình hoặc một gia tộc. Hiểu đơn giản hơn thì đây chính là cuộc hôn nhân giữa những người cùng dòng máu trong phạm vi ba đời trở lại.

Kết hôn cận huyết xuất phát từ xa xưa, phần đông là do văn hóa xã hội. Thời điểm ấy, các gia tộc, hoàng thất lựa chọn hôn nhân cận huyết thống để bảo tồn ngôi vị, quyền lực, không muốn của cải rơi vào tay của người ngoài.

Ngày nay, mặc dù xã hội đã rất tiến bộ nhưng tình trạng hôn nhân cận huyết vẫn diễn ra là bởi nhiều nguyên nhân như trình độ dân trí thấp, chưa hiểu rõ được hôn nhân cận huyết ảnh hưởng như thế nào đến giống nòi. Xuất phát từ tập tục văn hóa của vùng dân tộc thiểu số lạc hậu. Giao lưu văn hóa, giao thông ở vùng sâu vùng xa gặp nhiều khó khăn nên khó gặp gỡ với người ở vùng khác, làng khác và kết quả là chọn kết hôn với người trong gia tộc hoặc gia đình.

Nhiều người vẫn duy trì tư tưởng kết hôn cận huyết để cho mối quan hệ trở nên dễ dàng và bền lâu hơn, giảm áp lực trong mối quan hệ mẹ chồng và nàng dâu đồng thời khiến cho những người phụ nữ trong gia đình dễ dàng giúp đỡ nhau hơn. Muốn duy trì và truyền tải văn hóa gia tộc, bảo tồn của cải. Vô tình nảy sinh tình cảm tự nhiên giữa những người cùng chung huyết thống. Thành viên trong một gia đình thất lạc nhau nhiều năm và vô tình có tình cảm rồi kết hôn với nhau.

Trẻ được sinh ra từ cuộc hôn nhân cận huyết dễ mắc các bệnh lý di truyền nguy hiểm. Những bệnh lý có thể xảy ra ở thế hệ sau của một cuộc hôn nhân cận huyết gồm: Sớm bị khiếm thính và suy giảm thị lực. Dị tật bẩm sinh vì rối loạn di truyền. Khuyết tật hoặc chậm phát triển về mặt trí tuệ. Chậm hoặc không thể phát triển thể chất. Động kinh. Bị các bệnh lý rối loạn máu. Ngoài ra, hôn nhân cận huyết còn có thể dẫn đến tình trạng thai lưu, sảy thai,...

Trẻ được sinh ra từ cuộc hôn nhân cận huyết rất dễ mắc các bệnh dị dạng về xương, thiểu năng trí tuệ, phình to bụng, bạch tạng, tan máu bẩm sinh, thiếu men G6PD, hồng cầu liềm,... và nguy cơ tử vong là rất lớn. Cứ như thế, những bệnh lý này di truyền đến các thế hệ sau và kết quả là dần dần nòi giống sẽ bị suy thoái.

Đặc biệt, những đứa trẻ được sinh ra từ cha mẹ cùng huyết thống có tời 50% mang gen bệnh và 25% khả năng bị mắc bệnh Thalassemia (tan máu bẩm sinh di truyền). Bệnh lý này hiện chưa có biện pháp điều trị khỏi, chi phí trị bệnh vô cùng tốn kém và người bệnh sẽ phải điều trị cả cuộc đời nên trở thành gánh nặng cho cả xã hội và gia đình, khiến thế hệ tương lai phải gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề.

Những cuộc hôn nhân cận huyết đã và đang gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng dân số, nhân lực và nòi giống của các dân tộc thiểu số nước ta nói riêng và toàn đất nước nói chung. Nó được xem là rào cản cho sự phát triển xã hội và kinh tế, kéo lùi tiến bộ xã hội

Những vùng có tỷ lệ kết hôn cận huyết cao đang phải đứng trước nguy cơ suy thoái giống nòi. Không những thế, những nơi này còn phải chịu gánh nặng từ việc chi trả chi phí chăm sóc và điều trị các bệnh lý di truyền do hôn nhân cận huyết gây ra nên kinh tế rất khó phát triển.

Xem thêm video đang được quan tâm:

Những Điều Có Thể Bạn Chưa Biết Về Nữ Bác Sĩ Đầu Tiên Của Việt Nam | SKĐS

Bình luận (0)
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn
Quảng Ninh: Tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng về Dân số và Phát triển

Quảng Ninh: Tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng về Dân số và Phát triển

Dân số và phát triển - 2 giờ trước

GĐXH - Dù gặp nhiều khó khăn do sáp nhập địa giới hành chính và biến động dân số, công tác Dân số và phát triển của xã Quảng Hà, Quảng Ninh vẫn đạt nhiều kết quả tích cực nổi bật ở các lĩnh vực truyền thông, sử dụng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, sàng lọc trước sinh-sơ sinh và chăm sóc sức khỏe người cao tuổi.

Người phụ nữ sinh con khỏe mạnh ở tuổi 53 sau 22 năm vô sinh

Người phụ nữ sinh con khỏe mạnh ở tuổi 53 sau 22 năm vô sinh

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

GĐXH - Bé Mơ chào đời là thành quả kiên trì của cặp vợ chồng vô sinh và tiến bộ y khoa trong hỗ trợ sinh sản.

6 dấu hiệu nghi ngờ mắc u xơ tử cung

6 dấu hiệu nghi ngờ mắc u xơ tử cung

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

U xơ tử cung có thể gây nhiều biến chứng, vì vậy chị em không nên chủ quan với những dấu hiệu nghi ngờ. Cần đi khám chuyên khoa sớm để được chẩn đoán chính xác và điều trị can thiệp kịp thời.

Cơn ác mộng thầm lặng: Nóng bừng và vã mồ hôi ban đêm ở nam giới trung niên

Cơn ác mộng thầm lặng: Nóng bừng và vã mồ hôi ban đêm ở nam giới trung niên

Dân số và phát triển - 3 ngày trước

Khi nhắc đến khái niệm 'bốc hỏa' hay 'vã mồ hôi ban đêm', người ta thường nghĩ đến phụ nữ trong thời kỳ tiền mãn kinh. Tuy nhiên, đây cũng là một tình trạng phổ biến và gây ra không ít phiền toái cho nam giới khi bước vào độ tuổi trung niên từ 40 đến 60 tuổi.

4 triệu chứng khó chịu lại có thể là dấu hiệu thai kỳ khỏe mạnh

4 triệu chứng khó chịu lại có thể là dấu hiệu thai kỳ khỏe mạnh

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

Một số triệu chứng khó chịu khi mang thai có thể là dấu hiệu của một thai kỳ khỏe mạnh.

Mất ngủ khi mang thai: Bí quyết giúp mẹ bầu ngủ ngon và an toàn cho thai nhi

Mất ngủ khi mang thai: Bí quyết giúp mẹ bầu ngủ ngon và an toàn cho thai nhi

Dân số và phát triển - 5 ngày trước

Mất ngủ khi mang thai không chỉ là nỗi lo về sức khỏe mà còn làm giảm chất lượng cuộc sống của mẹ bầu. Hiểu rõ nguyên nhân và áp dụng đúng các giải pháp hỗ trợ sẽ giúp mẹ cải thiện giấc ngủ nhanh chóng.

Đông Triều vận động người dân thực hiện tốt các chính sách dân số

Đông Triều vận động người dân thực hiện tốt các chính sách dân số

Dân số và phát triển - 5 ngày trước

GĐXH - Trạm Y tế phường Đông Triều tổ chức hội nghị truyền thông hưởng ứng Tháng hành động Quốc gia về Dân số (tháng 12) và kỷ niệm Ngày Dân số Việt Nam 26/12 nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và cộng đồng đối với công tác dân số trong tình hình mới.

Nghệ An: Đầu tư cho dân số là đầu tư cho phát triển bền vững

Nghệ An: Đầu tư cho dân số là đầu tư cho phát triển bền vững

Dân số và phát triển - 5 ngày trước

GĐXH - Trong bối cảnh Nghệ An đang chuyển trọng tâm từ kiểm soát quy mô sang nâng cao chất lượng dân số, lễ kỷ niệm 64 năm Ngày Dân số Việt Nam và hưởng ứng Tháng hành động quốc gia về Dân số năm 2025 là dịp khẳng định rõ quan điểm: đầu tư cho công tác dân số chính là đầu tư cho sự phát triển bền vững, lâu dài của tỉnh và của đất nước.

Quảng Ninh: Hội nghị truyền thông hưởng ứng Tháng hành động Quốc gia về Dân số

Quảng Ninh: Hội nghị truyền thông hưởng ứng Tháng hành động Quốc gia về Dân số

Dân số và phát triển - 6 ngày trước

Trạm Y tế phường Quang Hanh tổ chức hội nghị truyền thông hưởng ứng Tháng hành động Quốc gia về Dân số (tháng 12) và kỷ niệm Ngày Dân số Việt Nam 26/12/2025 nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và cộng đồng đối với công tác dân số trong tình hình mới.

Lạc nội mạc tử cung: Chị em nên biết để phòng bệnh

Lạc nội mạc tử cung: Chị em nên biết để phòng bệnh

Dân số và phát triển - 6 ngày trước

GĐXH - Nhập viện cấp cứu, các bác sĩ đánh giá chị Trang đã mất gần 45% thể tích tuần hoàn do chảy máu kéo dài do bị lạc nội mạc tử cung.

Top