Hậu quả khôn lường từ hôn nhân cận huyết
Hôn nhân cận huyết là tình trạng vẫn còn tồn tại ở các vùng dân tộc thiểu số miền núi. Đây cũng là nguyên nhân suy giảm chất lượng dân số trầm trọng, nguy cơ sinh ra con dị tật, mang nhiều bệnh di truyền.
Tỷ lệ hôn nhân cận huyết vùng dân tộc thiểu số vẫn còn cao
Trong những năm qua, tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống đã gây những ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe bà mẹ, trẻ em; làm suy giảm chất lượng dân số; ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực và là một trong những lực cản đối với sự phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) và sự phát triển bền vững của vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi.
Theo kết quả Tổng điều tra thực trạng KT-XH của 53 DTTS, tổng dân số người DTTS nước ta là 14,1 triệu người, gần 3 triệu hộ (chiếm 14,7% dân số cả nước); cư trú thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố, 548 huyện, 5.266 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 382 xã biên giới. Địa bàn cư trú chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ và Tây Duyên hải miền Trung, chiếm 3/4 diện tích cả nước.

Ảnh minh họa
Sau 5 năm thực hiện Đề án "Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng DTTS giai đoạn 2015-2025" (Đề án 498), tỷ lệ tảo hôn trong vùng DTTS có xu hướng giảm dần. Theo dân tộc, tỷ lệ tảo hôn cao nhất là Mông (51,5%), Cơ Lao (47,8%), Mảng (47,2%), Xinh Mun (44,8%), Mạ (39,2%). Theo giới tính, tỷ lệ tảo hôn của nữ DTTS năm 2018 vẫn cao hơn so nam DTTS (năm 2018: nam 20,1% và nữ 23,5%). So với năm 2014, tỷ lệ tảo hôn của nam DTTS đã giảm được 5,9%, cao hơn so với mức giảm tương ứng của nữ DTTS là 3,6% (năm 2014: nam 26,0% và nữ 27,1%). Tỷ lệ tảo hôn của nữ DTTS luôn cao hơn nam ở tất cả các vùng, ngoại trừ Đồng bằng sông Hồng.
Tỷ lệ kết hôn cận huyết trong vùng DTTS có xu hướng giảm nhưng không đáng kể. Tỷ lệ người DTTS kết hôn cận huyết thống năm 2018 là 5,6%, giảm 0,9% so với năm 2014 (6,5%). Theo giới tính, tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống năm 2018 của nam DTTS là 5,29%, giảm 1,26% so với năm 2014 là 6,55%; và tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống của nữ DTTS năm 2018 là 5,87%, giảm 0,5% so với năm 2014 là 6,37%.
Tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống cao nhất năm 2018 gồm Mnông 37,7%, (nam 40,57% và nữ 35,38%), La Chí 30,8% (nam 27,43% và nữ 33,64%), Bru Vân Kiều 28,6% (nam 28,81% và nữ 28,41%), Cơ Tu 28,0% (nam 10,92% và nữ 43,21%) và Lô Lô 22,4% (nam 25,41% và nữ 20,02%).
Tình trạng kết hôn cận huyết thống của người DTTS đã giảm nhưng vẫn tăng cao ở một số dân tộc. Một số DTTS có tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống cao năm 2014, đến năm 2018 đã không còn tình trạng này như Mạ, Mảng, Cơ Ho, Kháng, Chứt. Tuy nhiên, năm 2018 cũng ghi nhận sự gia tăng của tỷ lệ kết hôn cận huyết thống ở một số DTTS như: La Chí (tăng từ 10,1% năm 2014 lên 30,8% năm 2018), Bru Vân Kiều (tăng từ 14,3% năm 2014 lên 28,6% năm 2018), Lô Lô (tăng từ 8,3% năm 2014 lên 22,4% năm 2018), Gia Rai (tăng từ 9,1% năm 2014 lên 14,6% năm 2018) và La Ha (tăng từ 7,6% năm 2014 lên 11,0% năm 2018).
Hôn nhân cận huyết dễ sinh ra trẻ nhiều bệnh tật
Y học đã chứng minh tác hại của những cặp hôn nhân cận huyết: Những cặp vợ chồng khỏe mạnh lại có thể sinh con dị dạng hoặc mang bệnh tật di truyền như: mù màu (không phân biệt được màu đỏ và màu xanh), bạch tạng, da vảy cá...
Giải thích hiện tượng này, di truyền học cho biết, mọi đặc điểm trên cơ thể đều được quy định bởi gene, kể cả trường hợp bệnh lý. Cơ thể mỗi người có khoảng 500-600 nghìn gene, trong số đó không tránh khỏi có dăm bảy gene lặn bệnh lý, chưa có điều kiện bộc lộ gây tác hại.
Gene lặn bệnh lý tồn tại dai dẳng trong dòng họ từ thế hệ này qua thế hệ khác. Nếu cuộc hôn nhân được tiến hành với người khác dòng họ thì nguy cơ bệnh bộc phát thường không cao. Trái lại, hôn nhân cận huyết chính là điều kiện thuận lợi cho những gene lặn bệnh lý tương đồng gặp gỡ nhau, sinh những đứa con bệnh tật hoặc dị dạng di truyền.

Ảnh minh họa
Ở những quần thể dân cư nhỏ sống biệt lập (không có điều kiện kết hôn rộng ra với các quần thể dân cư khác), các bệnh tật di truyền bẩm sinh rất cao. Tại Việt Nam, các điều tra cho thấy một số bệnh di truyền thường có tỷ lệ cao hơn ở các dân tộc ít người. Có thể do tập quán và điều kiện địa lý cách trở khiến các cuộc hôn nhân của họ bị bó hẹp trong một quần thể dân cư nào đó.Hôn nhân cận huyết là cuộc hôn nhân xảy giữa hai người cùng chung dòng máu trực hệ của một gia đình hoặc một gia tộc. Hiểu đơn giản hơn thì đây chính là cuộc hôn nhân giữa những người cùng dòng máu trong phạm vi ba đời trở lại.
Kết hôn cận huyết xuất phát từ xa xưa, phần đông là do văn hóa xã hội. Thời điểm ấy, các gia tộc, hoàng thất lựa chọn hôn nhân cận huyết thống để bảo tồn ngôi vị, quyền lực, không muốn của cải rơi vào tay của người ngoài.
Ngày nay, mặc dù xã hội đã rất tiến bộ nhưng tình trạng hôn nhân cận huyết vẫn diễn ra là bởi nhiều nguyên nhân như trình độ dân trí thấp, chưa hiểu rõ được hôn nhân cận huyết ảnh hưởng như thế nào đến giống nòi. Xuất phát từ tập tục văn hóa của vùng dân tộc thiểu số lạc hậu. Giao lưu văn hóa, giao thông ở vùng sâu vùng xa gặp nhiều khó khăn nên khó gặp gỡ với người ở vùng khác, làng khác và kết quả là chọn kết hôn với người trong gia tộc hoặc gia đình.
Nhiều người vẫn duy trì tư tưởng kết hôn cận huyết để cho mối quan hệ trở nên dễ dàng và bền lâu hơn, giảm áp lực trong mối quan hệ mẹ chồng và nàng dâu đồng thời khiến cho những người phụ nữ trong gia đình dễ dàng giúp đỡ nhau hơn. Muốn duy trì và truyền tải văn hóa gia tộc, bảo tồn của cải. Vô tình nảy sinh tình cảm tự nhiên giữa những người cùng chung huyết thống. Thành viên trong một gia đình thất lạc nhau nhiều năm và vô tình có tình cảm rồi kết hôn với nhau.
Trẻ được sinh ra từ cuộc hôn nhân cận huyết dễ mắc các bệnh lý di truyền nguy hiểm. Những bệnh lý có thể xảy ra ở thế hệ sau của một cuộc hôn nhân cận huyết gồm: Sớm bị khiếm thính và suy giảm thị lực. Dị tật bẩm sinh vì rối loạn di truyền. Khuyết tật hoặc chậm phát triển về mặt trí tuệ. Chậm hoặc không thể phát triển thể chất. Động kinh. Bị các bệnh lý rối loạn máu. Ngoài ra, hôn nhân cận huyết còn có thể dẫn đến tình trạng thai lưu, sảy thai,...
Trẻ được sinh ra từ cuộc hôn nhân cận huyết rất dễ mắc các bệnh dị dạng về xương, thiểu năng trí tuệ, phình to bụng, bạch tạng, tan máu bẩm sinh, thiếu men G6PD, hồng cầu liềm,... và nguy cơ tử vong là rất lớn. Cứ như thế, những bệnh lý này di truyền đến các thế hệ sau và kết quả là dần dần nòi giống sẽ bị suy thoái.
Đặc biệt, những đứa trẻ được sinh ra từ cha mẹ cùng huyết thống có tời 50% mang gen bệnh và 25% khả năng bị mắc bệnh Thalassemia (tan máu bẩm sinh di truyền). Bệnh lý này hiện chưa có biện pháp điều trị khỏi, chi phí trị bệnh vô cùng tốn kém và người bệnh sẽ phải điều trị cả cuộc đời nên trở thành gánh nặng cho cả xã hội và gia đình, khiến thế hệ tương lai phải gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề.
Những cuộc hôn nhân cận huyết đã và đang gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng dân số, nhân lực và nòi giống của các dân tộc thiểu số nước ta nói riêng và toàn đất nước nói chung. Nó được xem là rào cản cho sự phát triển xã hội và kinh tế, kéo lùi tiến bộ xã hội
Những vùng có tỷ lệ kết hôn cận huyết cao đang phải đứng trước nguy cơ suy thoái giống nòi. Không những thế, những nơi này còn phải chịu gánh nặng từ việc chi trả chi phí chăm sóc và điều trị các bệnh lý di truyền do hôn nhân cận huyết gây ra nên kinh tế rất khó phát triển.
Xem thêm video đang được quan tâm:
Những Điều Có Thể Bạn Chưa Biết Về Nữ Bác Sĩ Đầu Tiên Của Việt Nam | SKĐS

Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác dân số và phát triển trong tình hình mới
Dân số và phát triển - 1 giờ trướcGĐXH – Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long vừa ký Quyết định số 1745/QĐ-TTg ngày 15/8/2025 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 149-KL/TW ngày 10/4/2025 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới.

9X Đồng Nai có con sau 9 năm hiếm muộn, ngày đi sinh nghe mẹ nói câu nghẹn lòng
Dân số và phát triển - 4 giờ trướcSau nhiều biến cố, 9X Đồng Nai nhận ra, phép màu sẽ đến từ chuỗi những đau đớn, tuyệt vọng và sự nỗ lực không ngừng của mình.

Mổ cấp cứu lấy thai cho người phụ nữ nặng 178kg
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcSản phụ 28 tuổi nặng 178kg, nhiều bệnh lý thai kỳ nguy hiểm, được chuyển viện cấp cứu trong tình trạng nguy cơ cao cho cả mẹ và thai nhi.

Căng não chạy đua với thời gian cứu mẹ con sản phụ nặng 178kg, mắc nhiều bệnh lý nguy hiểm
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH - Theo các bác sĩ, với cân nặng lớn kèm theo bệnh lý tiền sản giật và đái tháo đường, việc sinh thường gần như bất khả thi. Ngay cả lựa chọn sinh mổ cũng tiềm ẩn hàng loạt nguy cơ nguy hiểm.

Hà Nội tổ chức tập huấn Hệ thông tin quản lý chuyên ngành Dân số MIS2025RS, phục vụ triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Sáng ngày 14/8, Chi cục Dân số, Trẻ em và Phòng, chống Tệ nạn xã hội Hà Nội đã tổ chức Lớp tập huấn Hệ thông tin quản lý chuyên ngành Dân số MIS2025RS – phiên bản phục vụ triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp năm 2025.

Trữ trứng ở tuổi 34: Với tôi đó là món quà tự tặng cho tương lai sau nhiều biến cố, ai nói kệ ai
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcTôi đã trữ trứng thành công, giờ nghĩ lại đúng là sáng suốt.

Đau lòng: Sản phụ mất con vì chọn 'ngày đẹp, giờ đẹp' sinh mổ chủ động
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH - Sau khi được mổ đẻ chủ động ở tuần 37, trẻ có biểu hiện suy hô hấp, không đáp ứng với các biện pháp điều trị và không qua khỏi.

Nghẹt thở hành trình vừa giữ con vừa bảo toàn tính mạng cho sản phụ mắc ung thư cổ tử cung
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH - Khi nghe bác sĩ chẩn đoán bị ung thư cổ tử cung, chị L. hoang mang, sợ hãi tột độ. Chị chỉ nghĩ đến em bé trong bụng, liệu con có cơ hội sống? Liệu mình có kịp nhìn thấy con lúc chào đời?...

Giới trẻ đang lười yêu, ngại cưới, sinh con muộn và những hệ lụy nghiêm trọng về sau
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcGĐXH - Kết hôn muộn, ngại sinh con đang ngày càng phổ biến ở nước ta. Đây là thực tế rất đáng báo động bởi không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dân số mà còn kéo theo hệ lụy nghiêm trọng tới sự phát triển bền vững của đất nước.

Nam nhân viên văn phòng lở loét toàn thân vì quan hệ tình dục bừa bãi
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcTPO - Người bệnh thú nhận, anh từng có quan hệ tình dục đồng giới với nhiều bạn tình khác nhau và đều không sử dụng bao cao su. Theo các bác sĩ, đây không phải là trường hợp hiếm gặp khi thực tế số ca giang mai đang có xu hướng gia tăng trở lại, đặc biệt ở nhóm nam có quan hệ tình dục đồng giới.

Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.