Hà Nội
23°C / 22-25°C

Làm thế nào để duy trì vững chắc mức sinh thay thế

Thứ bảy, 07:29 19/12/2020 | Dân số và phát triển

GiadinhNet - Nghị quyết số 21 của Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới đã đề ra mục tiêu “Duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con). Vì sao lại “duy trì” chứ không không thúc đẩy mức sinh giảm nhanh như trước đây, và làm thế nào để đạt được mục tiêu này?

Gần 60 năm qua, nhờ kiên trì đẩy mạnh kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) mức sinh của Việt Nam đã giảm nhiều. Vào những năm 60 của thế kỷ trước, trung bình mỗi bà mẹ sinh khoảng 7 con, nay chỉ có 2 con, người ta gọi là đạt "mức sinh thay thế". 

Sinh đẻ từ hành vi mang tính tự nhiên, bản năng đã chuyển sang hành vi có kế hoạch, văn minh; từ bị động sang chủ động; từ số lượng nhiều, chất lượng thấp sang số lượng ít, chất lượng cao; từ sinh đẻ ít trách nhiệm sang sinh đẻ có trách nhiệm đầy đủ hơn. Đây thực sự là một trong những biến đổi xã hội sâu sắc nhất ở Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua. Kết quả này đã, đang và sẽ tác động mạnh mẽ, sâu rộng theo hướng tích cực đến sự phát triển bền vững của nước ta. Ghi nhận thành tựu này, ngay từ năm 1999, Liên Hợp Quốc đã trao Giải thưởng Dân số cho Việt Nam.

Làm thế nào để duy trì vững chắc mức sinh thay thế - Ảnh 1.

Sinh đẻ từ hành vi mang tính tự nhiên đã chuyển sang hành vi có kế hoạch; từ sinh đẻ ít trách nhiệm sang sinh đẻ có trách nhiệm đầy đủ hơn. Ảnh: T.L


Tuy nhiên, nếu tiếp tục đẩy mạnh KHHGĐ, mức sinh sẽ giảm sâu hơn, dưới ngưỡng "thay thế". Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, sau khi đạt được mức "mỗi cặp vợ chồng chỉ có 2 con", nếu vẫn tiếp tục duy trì chính sách giảm sinh sẽ phải đối mặt với tình trạng dân số giảm, già hóa trầm trọng, thiếu lao động… từ đó, tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của đất nước. Chính vì vậy, Nghị quyết số 21 của Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới, đã nhấn mạnh chủ trương "chuyển trọng tâm chính sách dân số từ KHHGĐ sang dân số và phát triển" và xác định mục tiêu không phải "giảm nhanh mức sinh" như trước đây mà là "Duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con), quy mô dân số 104 triệu người" vào năm 2030.

Để đạt mục tiêu này, theo tính toán của các nhà khoa học, luôn luôn phải có từ 13 triệu đến 14 triệu cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ sử dụng biện pháp tránh thai (năm 2016 con số này là 12,7 triệu). Không đáp ứng được nhu cầu này, hoặc mức sinh bùng nổ, hoặc nạn phá thai sẽ tăng lên. Theo chủ trương mới, KHHGĐ chỉ không còn là "trọng tâm" của chính sách dân số chứ không phải là "từ bỏ KHHGĐ", nhất là khi 2/3 dân số nước ta sống ở nông thôn, tỷ lệ lao động nông nghiệp cao, nghĩa là vẫn còn cơ sở kinh tế - xã hội để mức sinh có thể tăng lên. Mặt khác, số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ vẫn tăng dần nên nhu cầu KHHGĐ sẽ ngày càng lớn. Vấn đề là cần tổ chức KHHGĐ theo phương thức mới.

Tính chung trên phạm vi cả nước, Việt Nam đã đạt mục tiêu "mức sinh thay thế" một cách vững chắc, nhưng do trình độ phát triển không đều nên giữa các tỉnh, mức sinh chênh lệch khá lớn. Hàng chục năm nay vẫn tồn tại 3 nhóm tỉnh: Nhóm có mức sinh cao, thường là các tỉnh thuộc miền núi, Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ. Nhiều tỉnh mức sinh giảm rất sâu, như các tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ. Nhóm còn lại, gồm các tỉnh đang duy trì được mức sinh thay thế. Vì vậy, Nghị quyết 21-NQ/TW chỉ rõ phương hướng sẽ thực hiện: "giảm sinh ở những tỉnh, thành phố có mức sinh còn cao; duy trì kết quả đã đạt được ở những tỉnh, thành phố đạt mức sinh thay thế; thực hiện mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp". Điều này có nghĩa là, chương trình KHHGĐ ở nước ta phải làm sao cho mức sinh giữa các tỉnh, thành phố nhích lại gần nhau, gần mức sinh thay thế. Theo đó, công tác KHHGĐ phải được cụ thể hóa theo từng nhóm tỉnh, thành phố; phải có sự phân biệt về mục tiêu, nội dung truyền thông, phương thức cung cấp phương tiện, dịch vụ tránh thai cho phù hợp với kết quả về mức sinh mà mỗi tỉnh đã đạt được, chứ không đồng nhất như trước đây.

Làm thế nào để duy trì vững chắc mức sinh thay thế - Ảnh 2.

Tính chung trên phạm vi cả nước, Việt Nam đã đạt mục tiêu "mức sinh thay thế" một cách vững chắc. Ảnh: H.P


Đối với các tỉnh chưa đạt mức sinh thay thế, mục tiêu của KHHGĐ vẫn phải hướng đến giảm sinh. Đặc biệt, các tỉnh có mức sinh cao thì giảm sinh nên là một mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm của địa phương. Công tác truyền thông, giáo dục, tư vấn về KHHGĐ phải được đẩy mạnh. Việc cung cấp phương tiện, dịch vụ tránh thai cần đa dạng hóa, trong đó có thể cấp phát miễn phí hoặc bán rẻ những đối tượng thuộc diện nghèo để đảm bảo "mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đều được tiếp cận thuận tiện với các biện pháp tránh thai hiện đại". Đối với nhóm tỉnh này, vẫn cần có chính sách khuyến khích cả vật chất và tinh thần cho những người thực hiện tốt công tác KHHGĐ.

Đối với những tỉnh có mức sinh thấp, KHHGĐ không còn là mục tiêu để giảm sinh mà chỉ để giúp những ai muốn giãn cách các lần sinh hoặc không muốn sinh quá 2 con. Các biện pháp thực hiện công tác KHHGĐ cũng cần thay đổi. Truyền thông, một mặt, phải làm rõ hậu quả của sinh muộn, sinh 1 con hoặc không sinh con đối với chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình; sự phát triển bền vững của địa phương và đất nước. Mặt khác, cần chuyển sang những chủ đề mới, như: tận dụng cơ hội cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số, giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh, di cư và đặc biệt là nâng cao chất lượng dân số. Việc cung cấp phương tiện, dịch vụ tránh thai cần được "thị trường hóa" và chấm dứt mọi chính sách khuyến khích giảm sinh trước đây. Ngược lại, cần xây dựng, đa dạng hóa hệ thống dịch vụ, hỗ trợ gia đình, đặc biệt là hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo; chế độ đối với cặp vợ chồng lao động khi sinh con... nhằm giảm bớt gánh nặng nuôi dạy và chăm sóc trẻ.

Đối với những tỉnh đã đạt mức sinh thay thế, mục tiêu của công tác dân số là "duy trì kết quả" này, nghĩa là không để mức sinh giảm xuống hoặc tăng lên. Các giải pháp nhằm đạt được mục tiêu này tương tự như nhóm có mức sinh thấp. Bên cạnh đó, cần tránh tư tưởng chủ quan, tránh những thay đổi đột ngột trong công tác KHHGĐ. Cần chú ý rằng, mức sinh giảm ở nước ta không chỉ do sự tiến bộ kinh tế, xã hội mà còn do tác động mạnh mẽ của chính sách, chương trình dân số - KHHGĐ. Do đó, bất kỳ sự buông lỏng nào trong công tác dân số đều có thể làm mức sinh tăng lên. Mức sinh luôn biến động theo thời gian và theo địa phương. Vì vậy, để có cơ sở ra những quyết định phù hợp, đúng đắn cho vấn đề KHHGĐ, điều tiên quyết là hằng năm, các tỉnh, thành phố cần được cập nhật số liệu chính xác về dân số nói chung, tình trạng KHHGĐ và mức sinh nói riêng. Điều này có nghĩa là cần tăng cường và nâng cao chất lượng công tác thống kê dân số - KHHGĐ.

Với việc ban hành Nghị quyết 21, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, chúng ta tin tưởng rằng, không chỉ trên phạm vi cả nước mà mỗi tỉnh, thành phố của Việt Nam cũng sẽ đạt được mức sinh thay thế, cơ cấu dân số vàng vẫn được duy trì, góp phần đảm bảo phát triển bền vững gia đình và đất nước.

Ngày 28/4/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 588/QĐ-TTg phê duyệt "Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030". Quyết định này đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2030, tăng 10% tổng tỷ suất sinh ở các tỉnh, thành phố có mức sinh thấp (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có dưới 2 con); giảm 10% tổng tỷ suất sinh ở các tỉnh, thành phố có mức sinh cao; đồng thời duy trì kết quả ở những tỉnh, thành phố đã đạt mức sinh thay thế.

Các chuyên gia nhận định, chính sách dân số mới này của Việt Nam là cơ hội để trong tương lai, Việt Nam sẽ có một thế hệ lao động mới, kéo dài cơ cấu dân số vàng, bảo đảm nguồn lực cho phát triển đất nước.

BS Mai Xuân Phương

Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn
Cuộc thi "Rung chuông vàng" nâng cao kiến thức dân số và sức khỏe sinh sản trong trường học

Cuộc thi "Rung chuông vàng" nâng cao kiến thức dân số và sức khỏe sinh sản trong trường học

Dân số và phát triển - 9 giờ trước

GĐXH - Thông qua cuộc thi, học sinh được trang bị kiến thức về dân số, phát triển và sức khỏe sinh sản vị thành niên; rèn kỹ năng sống, ứng xử, phòng chống xâm hại và bạo lực học đường. Đây cũng là sân chơi lành mạnh để các em thể hiện trí tuệ, sáng tạo, giao lưu và chia sẻ quan điểm về những vấn đề văn hóa - xã hội.

8 bước chủ động phòng tránh và giảm thiểu trầm cảm sau sinh

8 bước chủ động phòng tránh và giảm thiểu trầm cảm sau sinh

Dân số và phát triển - 19 giờ trước

Trầm cảm sau sinh là một rối loạn tâm trạng nghiêm trọng, gây rủi ro cao cho sức khỏe tinh thần của người mẹ và sự an toàn của trẻ sơ sinh. Tìm hiểu 8 bước tiếp cận quan trọng giúp phụ nữ giảm thiểu nguy cơ trầm cảm sau sinh và vững vàng trong hành trình nuôi con.

Thoái vị đĩa đệm cột sống lưng: Cần làm gì để hết đau?

Thoái vị đĩa đệm cột sống lưng: Cần làm gì để hết đau?

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

GĐXH - Chỉ một ngày khi đồng ý phẫu thuật thoát vị đĩa đệm cột sống lưng, cô L. đã có thể tự đi lại và được xuất viện sau 1 tuần.

Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (3): Giải pháp toàn diện và sức mạnh hệ thống chính trị

Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (3): Giải pháp toàn diện và sức mạnh hệ thống chính trị

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

GĐXH - Sau khi nhìn nhận rõ thách thức từ con số và gốc rễ từ tư tưởng xã hội, cuộc chiến kiểm soát nhằm giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tại Hà Nội bước sang một giai đoạn mới: Giai đoạn hành động sáng tạo và quyết liệt.

Mang thai bị viêm âm đạo ảnh hưởng thế nào đến thai nhi?

Mang thai bị viêm âm đạo ảnh hưởng thế nào đến thai nhi?

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

GĐXH - Viêm âm đạo do nấm không gây nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng, nhưng nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến một số bệnh lý cho thai phụ và thai nhi.

Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (2): Nguyên nhân sâu xa và rào cản nhận thức

Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (2): Nguyên nhân sâu xa và rào cản nhận thức

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

GĐXH - Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) dai dẳng tại Hà Nội không phải là kết quả của sự ngẫu nhiên. Nó là hệ quả trực tiếp của sự xung đột giữa các giá trị tiến bộ về bình đẳng giới và những tư tưởng truyền thống đã ăn sâu vào tiềm thức xã hội.

Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (1): Thách thức  lớn cho an sinh và chất lượng dân số Thủ đô

Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (1): Thách thức lớn cho an sinh và chất lượng dân số Thủ đô

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

GĐXH - Hà Nội, Thủ đô với gần 8,8 triệu dân đã đạt được mức sinh thay thế lý tưởng (khoảng 2,1 con/phụ nữ) và đang phấn đấu tiếp tục duy trì mức sinh thay thế trong năm 2025 và những năm tiếp theo. Tuy nhiên, đằng sau thành tựu này, thành phố đang phải đối mặt với một thách thức lớn và dai dẳng là tình trạng mất cân bằng tỉ số giới tính khi sinh.

Đi khám xương khớp nghĩ bệnh tuổi trung niên, người phụ nữ 52 tuổi bất ngờ phát hiện tiền ung thư cổ tử cung

Đi khám xương khớp nghĩ bệnh tuổi trung niên, người phụ nữ 52 tuổi bất ngờ phát hiện tiền ung thư cổ tử cung

Dân số và phát triển - 3 ngày trước

GĐXH - Đang ở độ tuổi được khuyến cáo tầm soát ung thư cổ tử cung, người bệnh được bác sĩ khuyến nghị thực hiện xét nghiệm HPV. Kết quả cho thấy dương tính với HPV type 1

5 nhóm phụ nữ nên chú ý khám sàng lọc ung thư cổ tử cung

5 nhóm phụ nữ nên chú ý khám sàng lọc ung thư cổ tử cung

Dân số và phát triển - 5 ngày trước

Sàng lọc ung thư cổ tử cung rất quan trọng để phát hiện sớm và cải thiện đáng kể cơ hội điều trị thành công. Vậy những chị em nào nên đặc biệt chú ý sàng lọc căn bệnh này?

Cô gái 23 tuổi bất ngờ phát hiện nguy cơ ung thư cổ tử cung từ một việc rất nhiều chị em Việt bỏ qua

Cô gái 23 tuổi bất ngờ phát hiện nguy cơ ung thư cổ tử cung từ một việc rất nhiều chị em Việt bỏ qua

Dân số và phát triển - 6 ngày trước

GĐXH - Người phụ nữ phát hiện ung thư cố tử cung hoàn toàn khỏe mạnh, không có biểu hiện bất thường như dịch âm đạo, đau bụng dưới hay rối loạn kinh nguyệt.

Top