Một số rối loạn tâm thần hậu COVID hay gặp
SKĐS- Đại dịch COVID -19 chưa kết thúc, nhưng đã để lại vô số người bị rối loạn tâm thần. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu một số rối loạn tâm thần hay gặp trong đại dịch.
1. Rối loạn stress sau sang chấn
Rối loạn này xảy ra với những người mắc COVID-19 mức độ nặng, ốm thập tử, nhất sinh, những người có một vài người thân trong gia đình bị tử vong do COVID-19 và những người (nhân viên y tế, người tình nguyện) phải chứng kiến số lượng lớn bệnh nhân tử vong mỗi ngày do COVID-19.
- Hồi tưởng, trong đó các cá nhân có thể cảm thấy và hành động như thể chấn thương đang tái diễn. Các triệu chứng khác bao gồm những ký ức đau buồn hay những giấc mơ và những phản ứng căng thẳng khi tiếp xúc với bệnh nhân COVID-19 hoặc với những người tử vong do COVID-19. Người bệnh tìm kiếm và sưu tập bừa bãi các sự kiện, bài báo, video liên quan đến COVID-19.
- Bệnh nhân tránh các suy nghĩ hoặc các hoạt động liên quan đến COVID-19, giảm khả năng ghi nhớ, cảm giác bị bỏ rơi hoặc không có tương lai. Họ luôn có cảm giác bất an về tương lai, luôn sợ khó kết hôn, không có con, không có cuộc sống gia đình bình thường.

Người bệnh COVID-19 thường bị rối loạn stress sau sang chấn.
- Các triệu chứng của tăng kích thích bao gồm mất ngủ, khó chịu, tăng cảnh giác và giật mình. Bệnh nhân khó ngủ hoặc khó vào giấc ngủ, họ hay cáu gắt quá mức, luôn than phiền khó tập trung chú ý.
Rối loạn stress sau sang chấn được coi là cấp tính nếu các triệu chứng kéo dài dưới 3 tháng. Khi rối loạn này kéo dài trên 3 tháng thì gọi là mạn tính.
Để điều trị rối loạn stress sau sang chấn, người ta dùng thuốc chống trầm cảm SSRI. Hiệu quả tối đa của thuốc xuất hiện sau 12 tuần điều trị. Tuy nhiên rối loạn stress sau sang chấn cần được điều trị lâu dài, từ 6-18 tháng. Thuốc SSRI có ưu điểm là dung nạp tốt, hiệu quả cao, chỉ cần uống một lần mỗi ngày.
Các thuốc SSRI thường dùng là sertralin, fluvoxamin, paroxetin, fluoxetin.
2. Rối loạn thích ứng
Rối loạn thích ứng được định nghĩa là do chấn thương tâm lý gây ra, chấn thương tâm lý ở đây chính là đại dịch COVID - 19. Các triệu chứng không nhất thiết phải xuất hiện ngay sau khi có chấn thương tâm lý. Có thể các triệu chứng xuất hiện sau 3 tháng bị chấn thương tâm lý.
Các triệu chứng của bệnh không phải lúc nào cũng giảm đi ngay khi dịch bệnh COVID - 19 kết thúc. Nếu dịch bệnh COVID - 19 tiếp tục diễn ra, rối loạn có thể trở thành mạn tính.
Rối loạn thích ứng có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi và các triệu chứng của nó rất khác nhau. Các đặc điểm của trầm cảm, lo âu và hỗn hợp phổ biến nhất ở người lớn. Các triệu chứng về cơ thể phổ biến nhất ở trẻ em và người cao tuổi. Các biểu hiện cũng có thể bao gồm hành vi tấn công và lái xe thiếu thận trọng, uống rượu quá mức, không tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý, rối loạn thần kinh thực vật, mất ngủ và tự tử.
2.1. Rối loạn thích ứng với trầm cảm
Trong rối loạn thích ứng với trầm cảm, các triệu chứng biểu hiện rất giống với trầm cảm nội sinh (trầm cảm chủ yếu), nhưng chúng xuất hiện sau đại dịch COVID-19.
Bệnh nhân luôn có vẻ mặt ngơ ngác, đau khổ, họ mất hết các sở thích vốn có. Bệnh nhân luôn biểu hiện bi quan, chán nản, mất hết hy vọng vào tương lai. Họ luôn than phiền khó vào giấc ngủ, ngủ rất ít, không sâu giấc và dậy rất sớm. Buổi sáng họ than phiền mệt mỏi, mất năng lượng nên không muốn làm gì. Họ chán ăn, ăn ít, mất cảm giác ngon miệng và sút cân. Ngoài ra, họ dễ nổi cáu, hay buồn vô cớ, lo lắng quá mức và có thể có ý định và hành vi tự sát.
Các triệu chứng này thường bền vững trong nhiều tuần, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng lao động, sinh hoạt của bệnh nhân, khiến chất lượng cuộc sống của họ rất thấp.
Để điều trị rối loạn thích với trầm cảm, cần kết hợp giữa thuốc chống trầm cảm và thuốc bình thần hoặc thuốc an thần mới. Thuốc chống trầm cảm hay được sử dụng là sertralin và paroxetin. Hai thuốc này ít tác dụng phụ (chủ yếu là khô mồm, đắng miệng, đầy bụng, uể oải trong tuần đầu dùng thuốc), tác dụng điều trị xuất hiện tốt và bệnh nhân được cải thiện chỉ sau 2 - 3 tuần điều trị. Tuy nhiên, bệnh nhân cần phải uống thuốc tối thiểu 6 tháng để có thể khỏi hẳn rối loạn này.

Biểu hiện của rối loạn thích ứng.
2.2. Rối loạn thích ứng với lo âu
Bệnh nhân luôn trong tình trạng lo lắng quá mức không thể kiểm soát. Tình trạng lo âu này xuất hiện cả ngày (từ khi thức giấc đến khi ngủ), kéo dài nhiều tháng khiến cho cuộc sống của bệnh nhân bị thay đổi rất trầm trọng. Họ than phiền khó vào giấc ngủ, khó tập trung chú ý, khó ghi nhớ, rằng đầu óc trống rỗng, rất dễ mệt khi phải suy nghĩ.
Ngoài ra, họ còn có các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật như hồi hộp, đánh trống ngực, vướng ở cổ (hòn ở cổ), khô miệng, đầy bụng, cơn nóng bừng mặt hoặc lạnh buốt, mót đi tiểu (đái dắt), đi ngoài táo lỏng thất thường, run tay, căng cơ, đau mỏi vùng cổ, vai, gáy...
Để điều trị rối loạn thích ứng với lo âu, cần kết hợp giữa thuốc chống trầm cảm và thuốc an thần mới. Thuốc chống trầm cảm hay được sử dụng là sertralin và escitalopram. Hai thuốc này ít tác dụng phụ và dung nạp tốt. Tác dụng điều trị xuất hiện sau 4 - 8 tuần điều trị. Để tăng hiệu quả điều trị rối loạn thích ứng với lo âu, người ta phối hợp với một số thuốc an thần mới liều thấp (olanzapin, quetiapin, aripiprazol...). Bệnh nhân cần phải uống thuốc tối thiểu 12 tháng để tránh tái phát rối loạn này.

Mẹ bầu nên làm gì để tăng cường hệ miễn dịch và phòng tránh bệnh trong thai kỳ?
Dân số và phát triển - 20 giờ trướcMang thai khiến hệ miễn dịch mẹ bầu suy giảm, dễ mắc bệnh khi thời tiết thay đổi. Tăng cường đề kháng và chăm sóc sức khỏe đúng cách giúp mẹ và thai nhi luôn an toàn.

Tầm quan trọng của việc chuyên nghiệp hóa nghề chăm sóc
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH - Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số nhanh chóng, việc chuyên nghiệp hóa nghề chăm sóc được xác định là một trong những giải pháp chiến lược để bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi, đồng thời thúc đẩy bình đẳng giới và phát triển kinh tế xã hội bền vững.

Ung thư vú có di truyền không?
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcTheo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất và gây tử vong cao nhất trong các loại ung thư ở nữ giới. Tại Việt Nam, ung thư vú cũng là loại ung thư có tỷ lệ mắc cao nhất. Vậy ung thư vú có di truyền không và làm cách nào để tầm soát ở giai đoạn sớm?

Cực hiếm: Người phụ nữ mang 4 thai tự nhiên
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Theo các bác sĩ, đây là một tình huống đặc biệt hiếm trong sản khoa, với tỷ lệ gặp chỉ khoảng 1/700.000 – 1/800.000 ca mang thai tự nhiên.

Bất ngờ với lý do người vợ trẻ ôm tờ xét nghiệm ADN khóc nức nở
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcSau 4 giờ dài dằng dặc chờ đợi kết quả ADN nhưng mọi chuyện không thuận theo mong mỏi, người phụ nữ trẻ ôm tờ kết quả xét nghiệm, gục đầu khóc nức nở.

Bé gái ở Phú Thọ chào đời với cân nặng 5kg
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcGĐXH - Sau sinh, trẻ hồng hào, khóc to, phản xạ tốt. Được biết, trong suốt thai kỳ, sản phụ tăng 20kg và hoàn toàn khỏe mạnh.

5 bí quyết chăm sóc ngực mẹ sau sinh giúp tránh tắc tia sữa, nứt núm vú
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcTắc tia sữa, nứt núm vú là tình trạng phổ biến, gây đau đớn và ảnh hưởng đến quá trình nuôi con bằng sữa mẹ. Tuy nhiên, chỉ với vài thói quen chăm sóc ngực đơn giản mỗi ngày, mẹ hoàn toàn có thể phòng tránh hiệu quả.

Tiếng khóc của trẻ báo hiệu bệnh lý, cần cho trẻ kiểm tra sớm
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcGĐXH - Theo nghiên cứu, trẻ sơ sinh có thể phát ra từ 5 đến 7 loại tiếng khóc khác nhau, tương ứng với các nhu cầu và cảm xúc khác nhau...

Mẹ bị viêm tuyến vú có cho con bú được không?
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcViêm tuyến vú không những gây khó khăn, đau đớn khi cho con bú mà còn dễ có nguy cơ nhiễm trùng áp-xe vú nếu không được điều trị kịp thời. Vậy mẹ có nên cho con bú khi bị viêm tuyến vú không?

10 dấu hiệu của ung thư tuyến tiền liệt có thể nhầm lẫn với bệnh lý khác
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcUng thư tuyến tiền liệt thường xuất hiện với những triệu chứng khó nhận biết, dễ bị nhầm lẫn với các vấn đề sức khỏe ít nghiêm trọng hơn. Đừng bỏ qua những 10 dấu hiệu dưới đây, bởi việc phát hiện sớm có ý nghĩa quyết định trong điều trị.

Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.