Nghiên cứu thực trạng người cao tuổi tại Hà Tây năm 2003
Số lượng và tỷ trọng người cao tuổi (NCT) từ 60 trở lên trên thế giới liên tục tăng trong vài thập kỷ qua.
Để góp phần nâng cao chất lượng người cao tuổi từ 9-10/2003, Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em tỉnh Hà Tây tiến hành một nghiên cứu nhằm cung cấp những thông tin cơ bản về người cao tuổi ở Hà Tây và làm cơ sở cho việc xây dựng các chương trình can thiệp phù hợp.
1.1 Đối tượng: Đối tương nghiên cứu gồm 483 NCT, trong đó 182 (37,7%) cụ ông và 301 cụ (62,3%) cụ bà; 315 cụ (65,3%) sống ở nông thôn và 168 cụ (34,7%) sống ở thành thị; 254 cụ (52,6%) từ 60 - 69 tuổi, 171 cụ (35,5%) từ 70 - 79 tuổi và 58 cụ (12,0%) từ 80 trở lên; 261 cụ (54,0%) là nông dân, 174 cụ (36,0%) hưu trí và 48 cụ (10,0%) làm các công việc khác.
- Nghiên cứu định lượng: Phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi và khám sức khoẻ, đánh giá thể lực và phân loại bệnh tật theo 17 chuyên khoa do Bộ y tế quy định.
- Nghiên cứu định tính: Tiến hành 9 cuộc thảo luận nhóm (mỗi xã 3 cuộc gồm 1 nhóm các cụ ông, nhóm các cụ bà và 1 nhóm gồm các cán bộ đảng, chính quyền, y tế, dân số, hội NCT; mỗi cuộc có từ 8-10 người tham gia) và 12 phỏng vấn sâu (mỗi xã 4 người: 1 cụ ông, 1 cụ bà và 2 cán bộ). Các cuộc thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu được thực hiện theo một khung hướng dẫn chuẩn bị trước.
1.3 Địa điểm: Nghiên cứu thực hiện tại 3 xã, phường: Xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai đại diện cho khu vực nông nghiệp; Xã Phú Yên, huyện Phú Xuyên đại diện cho khu vực làng nghề. Phường Nguyễn Trãi, thị xã Hà Đông đại diện cho khu vực thành thị.
1.4 Xử lý số liệu: Thông tin định lượng được xử lý trên máy tính, phần mềm STATA. Thông tin định tính được xử lý thủ công.
2.1.2 Vai trò đóng góp vào thu nhập của gia đình
2.1.3 Vai trò trong tiêu dùng hộ gia đình
2.1.5 Vai trò quyết định việc hôn nhân, sinh đẻ của con cháu trong gia đình:
2.2.1 Quỹ chi tiêu riêng
2.2.2 Nhu cầu về ăn, mặc, nhà ở của NCT: Nhu cầu về ăn của người cao tuổi ở thành thị 36,9% cho là rất đủ, 61,9% là tạm đủ, chỉ có 1,2% cho là thiếu. ở nông thôn chỉ có 16,5% NCT cho là ăn rất đủ và 77,1% là ăn tạm đủ, còn 6,34% là ăn thiếu và quá thiếu. Nhu cầu về ăn mặc của NCT ở thành thị 36,3% cho là rất đủ, 63,1% cho là tạm đủ. Còn ở nông thôn 76,8% cho là tạm đủ và 4,75% cho là thiếu và quá thiếu.
2.2.3 Tình trạng lao động và mục đích lao động
Mục đích lao động của các cụ cũng có nhiều điểm khác nhau, tuy nhiên các cụ cao tuổi ở khu vực thành thị và nông thôn có mục đích lao động kiếm tiền để sống có tỷ lệ gần tương đương nhau (15,5% và 16,5%). NCT lao động để làm vui tuổi già, thành thị là 79,8%, nông thôn là 57,1%. Các cụ ở cả 3 xã/phường nghiên cứu có mục đích truyền nghề cho con cháu là thấp 1,4%, trong đó các cụ ở nông thôn là 2,5% và thành thị hầu như không có. Tù đó thấy rằng đời sống của các cụ còn chưa được tốt, các cụ vẫn phải lao động để kiếm sống trong điều kiện sức khoẻ đang ngày một yếu hơn trước, cần có những chính sách để hỗ trợ người cao tuổi có một cuộc sống được đầy đủ hơn.
2.3.1 Tham gia các sinh hoạt vui chơi
2.3.2 Các phương tiện truyền thông của NCT sử dụng: Đời sống xã hội được cải thiện, vật chất của người dân ngày càng phong phú do đó việc tiếp cận với thông tin ngày càng đa dạng bằng các phương tiện như đài, báo, tivi và gần đây là mạng thông tin toàn cầu qua máy tính cá nhân. Loại phương tiện truyền thông mà các cụ thường sử dụng nhất là tivi chiếm 77,6% (trong đó thành thị: 89,9%; nông thôn: 71,1%) sau đó đến đài, sách báo, đã có một phần nhỏ (2,3%) các cụ đã tiếp cận với máy vi tính. Phương tiện truyền thông mà các cụ tiếp cận không có sự khác biệt nhiều, tuy nhiên các cụ cao tuổi ở thành thị tiếp cận nhiều hơn các cụ ở nông thôn và các phương tiện cũng đa dạng hơn. Qua đây thấy rằng nếu các cụ cao tuổi ở nông thôn được quan tâm hơn nữa về các mặt nhất là kinh tế thì sự chêch lệch về tỷ lệ tiếp cận phương tiện truyền thông giữa các khu vực sẽ giảm hơn.
2.3.3 Tham gia các hoạt động xã hội
Tham gia hoạt động của Đảng và Chính quyền: ở thành thị các cụ tham gia cao hơn so với ở nông thôn (6,0% so với 4,1%); các cụ từ 70 - 79 tuổi tham gia nhiều hơn các nhóm tuổi khác (5,6%); các cụ ông tham gia cao hơn các cụ bà (6,6% so với 5,6%); các cụ thuộc các thành phần xã hội tham gia tương đối đồng đều.
Tham gia hoạt động của Đoàn thể: có 39,6% cụ ông (chiếm tỷ lệ cao nhất), sau đó đến các cụ ở nông thôn và hầu như các cụ ở các độ tuổi cũng như các thành phần kinh tế tham gia hoạt động này tương đối đồng đều. Có một phần nhỏ các cụ tham gia các hoạt động tôn giáo (từ 3,0% cho đến 14,6%). Tuy nhiên, tỷ lệ các cụ không tham gia hoạt động một các thường xuyên chiếm một tỷ lệ rất lớn, hầu như ở tất cả các nhóm tuổi, khu vực, thành phần xã hội với tỷ lệ khá cao từ 45,6% đến 75,4%. Kết quả nghiên cứu được cho thấy công tác chăm sóc và quan tâm đến người cao tuổi còn chưa đồng đều và chưa rộng khắp, cần có những mô hình giúp đỡ NCT vui chơi, giải trí cũng như công tác chăm sóc NCT ngày một tốt hơn.
2.4.1 Thể lực
- Về thể lực: chiều cao các cụ ông dao động từ 151 - 160 cm, các cụ bà 145 - 153 cm. Cân nặng của các cụ ông từ 40,5kg đến 54,4kg, các cụ bà từ 38,7kg đến 48,3kg. Chỉ số BMI các cụ ông dao động từ 17,7 - 21,2 các cụ bà từ 18,3 - 20,5. Cả 2 giới thể lực giảm dần khi tuổi tăng lên, thể lực các cụ ông tốt hơn các cụ bà nhưng nhìn chung là thấp.
- Về dinh dưỡng: 10,4% các cụ qúa gầy, 46,2% các cụ gầy, chỉ có 36,4% các cụ đạt mức độ trung bình, 7% các cụ ở mức độ béo và quá béo. Dinh dưỡng các cụ ở thành thị cao gần gấp đôi các cụ ở nông thôn và giữa 2 giới khác nhau không lớn.
- Về mô hình bệnh tật: Có 96,1% các cụ mắc ít nhất một bệnh, trong đó mắc 1 bệnh là 61,5%, mắc 2 bệnh là 20,7% và 3 bệnh là 13,9%. Các bệnh phổ biến nhất là các bệnh thuộc hệ tuần hoàn (35,5%), sau đó là các bệnh xương khớp 20,7%. Các bệnh khác chiếm tỷ lệ dưới 10%.
- Các yếu tố liên quan: Nguồn nước, tình trạng sử dụng thuốc lá, thuốc lào, uống rượu có ảnh hưởng nhất định đến sức khoẻ.
- Về công tác chăm sóc sức khoẻ: Phần lớn các cụ khi ốm đau thì dựa vào con cái (56,7% dựa vào con trai, 33,7% dựa vào con gái), có 42,2% các cụ tự chăm sóc nhau. Chỉ có dưới 6% ý kiến các cụ trả lời không hài lòng với việc chăm sóc sức khoẻ cho các cụ hiện nay. Tuy nhiên số trả lời rất hài lòng cũng chỉ chiếm từ 1,4% - 35,6%, còn lại là hài lòng nhưng có mức độ.
2.4.2 Tình trạng bệnh tật
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy chuyên khoa mà các cụ mắc nhiều nhất thuộc hệ tuần hoàn 35,5%, sau đó đến Xương khớp và mô liên kết 20,7%; tiêu hoá 8,9%; hệ thần kinh là 8,5%; hệ thống hô hấp và mắt là 7,4%; còn các chuyên khoa khác tỷ lệ mắc lần lượt từ 0,2% đến 6,8%. So sánh kết quả này với nghiên cứu 435 người già điều trị tại bệnh viện Bạch Mai cho thấy tỷ lệ mắc bệnh theo chuyên khoa có những tỷ lệ tương đương và khác nhau như sau:
- Bệnh về hệ tuần hoàn: tỷ lệ mắc bệnh ít hơn (35,5% so với 59,3%).
- Bệnh về hệ thống hô hấp: tỷ lệ mắc bệnh ít hơn (7,4% so với 35,6%).
- Bệnh về hệ tiêu hoá: tỷ lệ mắc bệnh ít hơn (8,9% so với 39,0%).
- Bệnh thần kinh: tỷ lệ mắc bệnh nhiều hơn (8,5% so với 4,6%).
2.4.3 Một số yếu tố liên quan đến nguy cơ mắc bệnh
2.4.4. Công tác chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi
Công tác chăm sóc sức khoẻ cho các cụ là một trong những yếu tố hàng đầu trong công cuộc nâng cao sức khoẻ của người cao tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy người chăm sóc chính cho các cụ khi bị ốm đau là con trai (chiếm 56,7%) sau đó đến con dâu, rể (38,5%) và còn một phần khá lớn các cụ tự chăm sóc (42,2%). Từ đó chúng tôi nhận thấy rằng cần quan tâm hơn nữa tới các cụ khi các cụ bị ốm đau, cần có những chính sách hỗ trợ kịp thời cho những cụ già không nơi nương tựa, những cụ bị ảnh hưởng của chiến tranh.
Qua nghiên cứu có 35,6% các cụ rất hài lòng về sự chăm sóc của gia đình, 45,1% hài lòng và chỉ có 0,8% chưa hài lòng về sự chăm sóc của con cháu. Các tuyến chăm sóc khác như y tế thôn, trạm y tế xã phường, bệnh viên nhà nước tỷ lệ các cụ đánh giá là rất hài lòng còn thấp từ 4,8% - 6,4%, đánh giá là hài lòng cao nhất là 50,5% - 33,5% và tỷ lệ không hài lòng còn khá cao đối với bệnh viện nhà nước 5,2%. Riêng đối với các bác sĩ, phòng khám tư thì tỷ lệ hài lòng và rất hài lòng thấp có thể do các cụ đến khám ở các phòng khám tư ít hơn đến các cơ sở y tế của nhà nước.
10 loại thực phẩm cải thiện testosterone - tăng bản lĩnh cho phái mạnh
Dân số và phát triển - 6 giờ trướcDuy trì nồng độ testosterone tối ưu là điều cần thiết cho sức khỏe tổng thể, đặc biệt là khi nam giới lớn tuổi. Một trong những cách hiệu quả và tự nhiên nhất để tăng nồng độ testosterone là thông qua chế độ ăn uống.
Tỏa sáng bản lĩnh và ước mơ qua hội thi “Là con gái để tỏa sáng” ở Nghệ An
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH - Hội thi Là con gái để tỏa sáng tại Nghệ An giúp nâng cao kiến thức về dân số và phát triển. Trẻ em gái có cơ hội thể hiện tài năng và tìm hiểu sức khỏe sinh sản.
Quan niệm sai lầm về kiêng khem trong chế độ ăn uống của mẹ sau sinh
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcChế độ ăn uống sau sinh đóng vai trò thiết yếu trong việc phục hồi sức khỏe của người mẹ và đảm bảo chất lượng sữa cho em bé. Tuy nhiên, nhiều nơi còn tồn tại rất nhiều quan niệm sai lầm trong ăn uống sau sinh.
Luật Dân số: Thể chế hóa việc chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH – Việc xây dựng dự án Luật Dân số nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ để góp phần thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về dân số và khắc phục các hạn chế, tồn tại, đáp ứng yêu cầu công tác dân số và phát triển trong tình hình mới.
Thai phụ 41 tuổi dọa vỡ tử cung trên sẹo mổ cũ 2 lần may mắn thoát nguy hiểm
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Sản phụ thai 38 tuần, ngôi ngược, chuyển dạ lần 3 trên nền vết mổ lấy thai cũ 2 lần, đoạn dưới tử cung giãn mỏng, nguy cơ dọa vỡ trong chuyển dạ, đe dọa đến tính mạng cả sản phụ và thai nhi.
Mẹ bầu bị COVID-19, con có thể tăng nguy cơ mắc chứng tự kỷ
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcCOVID-19 giống như nhiều bệnh nhiễm trùng khác trong thai kỳ có thể gây rủi ro cho người mẹ và cả thai nhi. Nó có liên quan đến nguy cơ mắc các rối loạn phát triển thần kinh cao hơn bao gồm chứng tự kỷ ở trẻ.
Người già khôn ngoan không bao giờ bàn luận 4 điều này với con vì họ biết nói ra dễ xung đột và căng thẳng!
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcSau khi nghỉ hưu, những người cao tuổi thực sự khôn ngoan sẽ không bao giờ thảo luận bốn điều này với con cái của mình.
Đau bụng bất thường, thai phụ 32 tuần tuổi bất ngờ phát hiện viêm ruột thừa biến chứng nguy hiểm
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH - Sản phụ bị viêm ruột thừa nhập viện trong tình trạng đau cứng bụng, ban đầu đau thượng vị sau đau bụng hố chậu phải lan ra sau lưng.
3 cách phòng ngừa viêm đường tiết niệu ở phụ nữ mang thai
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcNhận biết các yếu tố nguy cơ và thực hiện các bước phòng ngừa có thể giúp phụ nữ mang thai giảm thiểu nguy cơ mắc viêm đường tiết niệu, đảm bảo sức khỏe trong suốt thai kỳ.
Estrogen có liên quan gì đến ung thư vú?
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcCó nhiều yếu tố nguy cơ gây ung thư vú trong đó có ảnh hưởng của hormone nữ estrogen. Mối liên hệ này là gì và những phụ nữ nào có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi yếu tố này?
Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.