Hà Nội
23°C / 22-25°C

Nghiên cứu thực trạng người cao tuổi tại Hà Tây năm 2003

Thứ ba, 16:54 29/11/2011 | Dân số và phát triển

Số lượng và tỷ trọng người cao tuổi (NCT) từ 60 trở lên trên thế giới liên tục tăng trong vài thập kỷ qua.

Vấn đề ng­ười cao tuổi đã và đang là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia. Việt Nam đang bư­ớc vào giai đoạn già hoá dân số, vấn đề ngư­­ời cao tuổi đang trở thành một trong những vấn đề xã hội cần được quan tâm và giải quyết.

Để góp phần nâng cao chất lư­ợng người cao tuổi từ 9-10/2003, Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em tỉnh Hà Tây tiến hành một nghiên cứu nhằm cung cấp những thông tin cơ bản về ngư­­ời cao tuổi ở Hà Tây và làm cơ sở cho việc xây dựng các chương trình can thiệp phù hợp.
 
1. Đối tượng và Ph­ương pháp nghiên cứu

1.1 Đối tượng: Đối tương nghiên cứu gồm 483 NCT, trong đó 182 (37,7%) cụ ông và 301 cụ (62,3%) cụ bà; 315 cụ (65,3%) sống ở nông thôn  và 168 cụ (34,7%) sống ở thành thị; 254 cụ (52,6%) từ 60 - 69 tuổi, 171 cụ (35,5%) từ 70 - 79 tuổi và 58 cụ (12,0%) từ 80 trở lên;  261 cụ (54,0%) là nông dân, 174 cụ (36,0%) hư­u trí và 48 cụ (10,0%) làm các công việc khác.
1.2 Phư­ơng pháp:

- Nghiên cứu định lượng: Phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi và khám sức khoẻ, đánh giá thể lực và phân loại bệnh tật theo 17 chuyên khoa do Bộ y tế quy định.
- Nghiên cứu định tính: Tiến hành 9 cuộc thảo luận nhóm (mỗi xã 3 cuộc gồm 1 nhóm các cụ ông, nhóm các cụ bà và 1 nhóm gồm các cán bộ đảng, chính quyền, y tế, dân số, hội NCT; mỗi cuộc có từ 8-10 ngư­ời tham gia) và 12 phỏng vấn sâu (mỗi xã 4 người: 1 cụ ông, 1 cụ bà và 2 cán bộ). Các cuộc thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu đư­ợc thực hiện theo một khung hư­ớng dẫn chuẩn bị trước.

1.3 Địa điểm: Nghiên cứu thực hiện tại 3 xã, phư­ờng: Xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai đại diện cho khu vực  nông nghiệp; Xã Phú Yên, huyện Phú Xuyên đại diện cho khu vực làng nghề. Phư­­ờng Nguyễn Trãi, thị xã Hà Đông đại diện  cho khu vực thành thị.

1.4 Xử lý số liệu: Thông tin định l­ượng được xử lý trên máy tính, phần mềm STATA. Thông tin định tính được xử lý thủ công.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Vai trò của người cao tuổi
2.1.1. Vai trò tổ chức, chỉ đạo các hoạt động kinh tế trong gia đình
 
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong chỉ đạo kinh tế gia đình có 40,8% các cụ còn đóng vai trò chủ yếu; 28,2% có vai trò có mức độ và 21,3% không còn vai trò, 9,7% không có ý kiến. Người cao tuổi ở thành thị có vai trò cao hơn ở nông thôn, 66,1% so với 27,3% vai trò chủ yếu. Tuổi càng cao vai trò càng giảm đi. Giữa các cụ ông và cụ bà vai trò không khác nhau nhiều. Học vấn càng cao vai trò càng rõ rệt. Các cụ là cán bộ hưu trí, mất sức có vai trò cao nhất còn các cụ là nông dân có vai trò thấp nhất.

2.1.2 Vai trò đóng góp vào thu nhập của gia đình
 
Có 38,9% đóng vai trò chủ yếu, 28,8% đóng vai trò một phần và 22,6% không còn vai trò. Sự khác biệt cũng rất rõ giữa các nhóm. Các cụ ở thành thị có vai trò cao hơn nhiều các cụ ở nông thôn: 64,9% so với 25,1% đóng vai trò chủ yếu; khi tuổi càng cao sự đóng góp vào thu nhập càng giảm đi (52,4% ở nhóm tuổi từ 60 - 69 và giảm xuống chỉ còn 5,2% ở nhóm tuổi từ 80 trở lên); vai trò các cụ ông cao hơn các cụ bà nhưng không nhiều (70,9% so với 65,7% các cụ đóng vai trò chủ yếu hoặc một phần). Các cụ thuộc cán bộ công chức nghỉ hưu thì việc đóng góp vào thu nhập cao hơn các cụ nông dân (63,8% so với 19,9%).  Như vậy, tuy người cao tuổi sức khoẻ không còn được như trước nhưng vẫn còn đóng góp vào thu nhập của gia đình.

2.1.3 Vai trò trong tiêu dùng hộ gia đình
 
Kết quả nghiên cứu cho thấy 42,2% các cụ cho biết vẫn còn đóng vai trò chủ yếu trong chi tiêu những việc lớn của gia đình, 24,8% còn 1 phần vai trò và 22,8% không còn vai trò. Sự khác biệt cũng xảy ra giữa các nhóm, đối với các cụ ở thành thị quyết định chủ yếu chiếm 66,7% trong khi đó ở nông thôn chỉ có 29,2%; việc không còn vai trò cũng có sự khác nhau 7,7% thành thị so với 30,8% nông thôn. Các quyết định chi tiêu về việc lớn trong gia đình thay đổi theo độ tuổi, ở thành thị độ tuổi càng cao thì việc quyết định chủ yếu càng giảm (56,3% ở nhóm tuổi 60 - 69 so với 8,6% ở nhóm trên 80); sự thay đổi theo giới không nhiều (41,2% ở nam so với 42,9% ở nữ); các cụ là cán bộ công chức nghỉ hưu có tỷ lệ cao hơn các cụ là nông dân (67,8% so với 21,8%).
 
2.1.4 Vai trò trung tâm đoàn kết trong gia đình, dòng họ:
 
Kết quả thấy rằng vai trò gìn giữ mối đoàn kết trong gia đình của các cụ rất lớn chiếm tới 44,5%, trong đó các cụ ở thành thị là 61,3% và các cụ ở nông thôn là 35,6%. Sự thay đổi về vai trò chủ yếu từ cao đến thấp là ở các nhóm tuổi, các cụ thuộc nhóm tuổi 60 - 69 có 59,4% còn các cụ ở nhóm trên 80 thì chỉ còn 13,8% là giữ vai trò chủ yếu. Sự thay đổi về vai trò quyết định cũng rất lớn giữa các giới, các cụ ông chiếm 53,3% và các cụ bà chiếm 39,2%. Các cụ là cán bộ công chức nghỉ hưu quyết định đến 63,8% trong khi đó các cụ là nông dân chỉ chiếm 27,2%.

2.1.5 Vai trò quyết định việc hôn nhân, sinh đẻ của con cháu trong gia đình: 
 
Theo kết quả nghiên cứu cho thấy:Các cụ không đóng vai trò chủ yếu trong việc quyết định hôn nhân cũng như việc sinh đẻ của con cháu, phần lớn các cụ chỉ đóng góp một phần nhỏ trong việc quyết định này chiếm 39,1%. Tuy nhiên, các quyết định chủ yếu về hôn nhân và sinh đẻ của các con cháu ở các cụ thành thị cao hơn ở nông thôn (46,4% so với 27,9%), các cụ là nông dân cũng chiếm tỷ lệ khá cao 50,0%, các cụ thuộc thành phần khác thì chiếm tỷ lệ thấp 19,1%.
2.2. nhu cầu vật chất và làm việc

2.2.1 Quỹ chi tiêu riêng
 
Có 32,7% NCT có quỹ chi tiêu riêng một cách ổn định, tỷ lệ không có quỹ chi tiêu riêng là 54,5%, số còn lại chiếm 12,8% các cụ có nhưng không ổn định. ở khu vực thành thị người cao tuổi có quỹ chi tiêu riêng ổn định là 51,8% trong khi  đó ở khu vực nông thôn chỉ tiêu này chỉ là 22,5%. Người cao tuổi ở nông thôn không có quỹ chi tiêu riêng chiếm tới 60,3%. 60,4% cụ ông và 50,8% cụ bà không có quỹ chi tiêu riêng. 25% người cao tuổi không có vợ, chồng không có quỹ chi tiêu riêng và 55,1% người cao tuổi goá, ly hôn ly thân cũng không có quỹ chi riêng. Có tới 69,3% người cao tuổi là nông dân không có quỹ chi tiêu riêng và 35,1% là cán bộ công chức nghỉ hưu không có quỹ chi tiêu riêng.
2.2.2 Nhu cầu về ăn, mặc, nhà ở của NCT: Nhu cầu về ăn của người cao tuổi ở thành thị 36,9% cho là rất đủ, 61,9% là tạm đủ, chỉ có 1,2% cho là thiếu. ở nông thôn chỉ có 16,5% NCT cho là ăn rất đủ và 77,1% là ăn tạm đủ, còn 6,34% là ăn thiếu và quá thiếu. Nhu cầu về ăn mặc của NCT ở thành thị 36,3% cho là rất đủ, 63,1% cho là tạm đủ. Còn ở nông thôn 76,8% cho là tạm đủ và 4,75% cho là thiếu và quá thiếu.

2.2.3 Tình trạng lao động và mục đích lao động
 
Kết quả điều tra tại 3 xã/phường thấy tỷ lệ người cao tuổi tham gia lao động là 28,2%, khi đem so sánh với Tổng điều tra dân số 1999 thấy rằng tỷ lệ này cao hơn 2,7% (28,2% so với 25,5%). Trong đó, tình trạng lao động của các cụ ở các khu vực cũng rất khác nhau. Các cụ ở thành thị tham gia lao động là 25,6% ở nông thôn là 28,3%. So sánh với Tổng điều tra dân số 1999 thì nghiên cứu này ngược lại với kết quả đó (ở nông thôn có 28,2% cao hơn ở thành thị 15,5%). Các cụ ông tham gia vào lao động cao hơn các cụ bà (33,0% so với 23,9%). Kết quả nghiên cứu này tương đương với kết quả Tổng điều tra dân số 1999 (các cụ ông là 29,3%, các cụ bà 15,9%). Các cụ là cán bộ công chức nghỉ hưu tham gia lao động ít hơn các cụ là nông dân (24,1% so với 29,9%).

Mục đích lao động của các cụ cũng có nhiều điểm khác nhau, tuy nhiên các cụ cao tuổi ở khu vực thành thị và nông thôn có mục đích lao động kiếm tiền để sống có tỷ lệ gần tương đương nhau (15,5% và 16,5%). NCT lao động để làm vui tuổi già, thành thị là 79,8%, nông thôn là 57,1%. Các cụ ở cả 3 xã/phường nghiên cứu có mục đích truyền nghề cho con cháu là thấp 1,4%, trong đó các cụ ở nông thôn là 2,5% và thành thị hầu như không có. Tù đó thấy rằng đời sống của các cụ còn chưa được tốt, các cụ vẫn phải lao động để kiếm sống trong điều kiện sức khoẻ đang ngày một yếu hơn trước, cần có những chính sách để hỗ trợ người cao tuổi có một cuộc sống được đầy đủ hơn.
2.3. Thoả mãn nhu cầu tinh thần

2.3.1 Tham gia các sinh hoạt vui chơi
 
Các cụ vui chơi cùng con cháu một cách thường xuyên chiếm 81,4%, tuy nhiên vẫn còn 5,6% các cụ không vui chơi cùng con cháu và tỷ lệ này có sự khác nhau giữa các khu vực. NCT ở nông thôn sinh hoạt cùng con cháu thường xuyên hơn người cao tuổi ở thành thị (83,5% so với 77,4%). Việc tiếp cận với các thông tin, tham quan du lịch, thể dục thể thao và sinh hoạt đoàn thể một cách thường xuyên của người cao tuổi ở thành thị cao hơn ở nông thôn (cụ thể: nghe đài, xem Tivi 73,2% so với 45,4%; thể dục thể thao 53,0 so với 12,4%; tham quan du lịch 31,5% so với 5,7%; sinh hoạt đoàn thể 38,1% so với 10,8%). Có sự chêch lệch đó có thể là do điều kiện kinh tế của thành thị cao hơn ở nông thôn.

2.3.2 Các phương tiện truyền thông của NCT sử dụng: Đời sống xã hội được cải thiện, vật chất của người dân ngày càng phong phú do đó việc tiếp cận với thông tin ngày càng đa dạng bằng các phương tiện như đài, báo, tivi và gần đây là mạng thông tin toàn cầu qua máy tính cá nhân. Loại phương tiện truyền thông mà các cụ thường sử dụng nhất là tivi chiếm 77,6% (trong đó thành thị: 89,9%; nông thôn: 71,1%) sau đó đến đài, sách báo, đã có một phần nhỏ (2,3%) các cụ đã tiếp  cận với máy vi tính. Phương tiện truyền thông mà các cụ tiếp cận không có sự khác biệt nhiều, tuy nhiên các cụ cao tuổi ở thành thị tiếp cận nhiều hơn các cụ ở nông thôn và các phương tiện cũng đa dạng hơn. Qua đây thấy rằng nếu các cụ cao tuổi ở nông thôn được quan tâm hơn nữa về các mặt nhất là kinh tế thì sự chêch lệch về tỷ lệ tiếp cận phương tiện truyền thông giữa các khu vực sẽ giảm hơn.

2.3.3 Tham gia các hoạt động xã hội

Tham gia hoạt động của Đảng và Chính quyền: ở thành thị các cụ tham gia cao hơn so với ở nông thôn (6,0% so với 4,1%); các cụ từ 70 - 79 tuổi tham gia nhiều hơn các nhóm tuổi khác (5,6%); các cụ ông tham gia cao hơn các cụ bà (6,6% so với 5,6%); các cụ thuộc các thành phần xã hội tham gia tương đối đồng đều.
Tham gia hoạt động của Đoàn thể: có 39,6% cụ ông (chiếm tỷ lệ cao nhất), sau đó đến các cụ ở nông thôn và hầu như các cụ ở các độ tuổi cũng như các thành phần kinh tế tham gia hoạt động này tương đối đồng đều. Có một phần nhỏ các cụ tham gia các hoạt động tôn giáo (từ 3,0% cho đến 14,6%). Tuy nhiên, tỷ lệ các cụ không tham gia hoạt động một các thường xuyên chiếm một tỷ lệ rất lớn, hầu như ở tất cả các nhóm tuổi, khu vực, thành phần xã hội với tỷ lệ khá cao từ 45,6% đến 75,4%. Kết quả nghiên cứu được cho thấy công tác chăm sóc và quan tâm đến người cao tuổi còn chưa đồng đều và chưa rộng khắp, cần có những mô hình giúp đỡ NCT vui chơi, giải trí cũng như công tác chăm sóc NCT ngày một tốt hơn.
2.4. Tình trạng sức khoẻ

2.4.1 Thể lực
 
Chỉ số BMI được dùng phổ biến nhất hiện nay trên thế giới  để đánh giá thể lực và dinh dưỡng người trưởng thành. Tuy nhiên chỉ số này theo một số tác giả chỉ phù hợp cho những người dưới 75 tuổi. Hiện nay chưa có chỉ số nào thay thế nên nghiên cứu này sử dụng chỉ số BMI để đánh giá thể lực và dinh dưỡng cho tất cả NCT kể cả trên 80 tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy chiều cao, cân nặng và chỉ số BMI đều giảm dần theo tuổi. ở các lớp tuổi, các chỉ tiêu đo được của các cụ ông đều cao hơn các cụ bà. Kết quả này phù hợp lý thuyết và một số nghiên cứu gần đây. Tình trạng dinh dưỡng của các cụ cũng rất khác nhau và thay đổi theo từng đặc trưng cá nhân. Nhìn chung các cụ ở tình trạng dinh dưỡng gầy chiếm 46,2%, có 36,4% trung bình và 10,4% rất gầy. Các cụ ở nông thôn gầy hơn các cụ ở thành thị (68,9% so với 33,4%). Các cụ ở độ tuổi 70 - 79 gầy hơn các độ tuổi khác, các cụ là nông dân và thành phần khác tỷ lệ gầy và rất gầy cũng cao hơn so với các cụ là cán bộ công chức đã nghỉ hưu. Các cụ bà và các cụ ông tình trạng dinh dưỡng không khác nhau nhiều (57,2% và 56,2%). Về tình trạng dinh dưỡng thuộc loại béo ở các cụ chỉ chiếm 1,0%, trong đó các cụ 70 -79 tuổi, các cụ ở thành thị, các cụ thuộc thành phần xã hội khác có tỷ lệ dinh dưỡng thuộc loại béo tương đương nhau 1,7% - 1,8%.

- Về thể lực: chiều cao các cụ ông dao động từ 151 - 160 cm, các cụ bà 145 - 153 cm. Cân nặng của các cụ ông từ 40,5kg đến 54,4kg, các cụ bà từ 38,7kg đến 48,3kg. Chỉ số BMI các cụ ông dao động từ 17,7 - 21,2 các cụ bà từ 18,3 - 20,5. Cả 2 giới thể lực giảm dần khi tuổi tăng lên, thể lực các cụ ông tốt hơn các cụ bà nhưng nhìn chung là thấp.

- Về dinh dưỡng: 10,4% các cụ qúa gầy, 46,2% các cụ gầy, chỉ có 36,4% các cụ đạt mức độ trung bình, 7% các cụ ở mức độ béo và quá béo. Dinh dưỡng các cụ ở thành thị cao gần gấp đôi các cụ ở nông thôn và giữa 2 giới khác nhau không lớn.

- Về mô hình bệnh tật: Có 96,1% các cụ mắc ít nhất một bệnh, trong đó mắc 1 bệnh là 61,5%, mắc 2 bệnh là 20,7% và 3 bệnh là 13,9%. Các bệnh phổ biến nhất là các bệnh thuộc hệ tuần hoàn (35,5%), sau đó là các bệnh xương khớp 20,7%. Các bệnh khác chiếm tỷ lệ dưới 10%.

- Các yếu tố liên quan: Nguồn nước, tình trạng sử dụng thuốc lá, thuốc lào, uống rượu có ảnh hưởng nhất định đến sức khoẻ.

- Về công tác chăm sóc sức khoẻ: Phần lớn các cụ khi ốm đau thì dựa vào con cái (56,7% dựa vào con trai, 33,7% dựa vào con gái), có 42,2% các cụ tự chăm sóc nhau. Chỉ  có dưới 6% ý kiến các cụ trả lời không hài lòng với việc chăm sóc sức khoẻ cho các cụ hiện nay. Tuy nhiên số trả lời rất hài lòng cũng chỉ chiếm từ 1,4% - 35,6%, còn lại là hài lòng nhưng có mức độ.

2.4.2 Tình trạng bệnh tật
 
Có tới 96,1% các cụ mắc ít nhất một bệnh, các cụ ở thành thị là 99,3% và các cụ ở nông thôn là 90,4%. Các cụ ông mắc bệnh cao hơn các cụ bà (98,4% so với 94,7%), các cụ là cán bộ hưu trí, mất sức mắc bệnh nhiều nhất 98,3%, độ tuổi mắc bệnh nhiều nhất là 60 - 69 tuổi 97,2%.Tỷ lệ các cụ mắc từ 3 bệnh trở lên chiếm 13,9%, các cụ mắc 2 bệnh chiếm 20,7% và mắc một bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất là 61,5%. Trong đó, đặc trưng cá nhân mà các cụ mắc cao nhất của 3 loại bệnh trở lên là các cụ ở thành thị với 32,7%. Tỷ lệ mắc bệnh của các cụ ở thành thị và là cán bộ công chức nghỉ hưu, mất sức cao hơn các cụ là nông dân và ở nông thôn, từ đó thấy rằng có thể do điều kiện môi trường, không khí và một số yếu tố  của sự phát triển đã ảnh hưởng nhiều đến cơ thể các cụ ở thành thị hay không?

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy chuyên khoa mà các cụ mắc nhiều nhất thuộc hệ tuần hoàn 35,5%, sau đó đến Xương khớp và mô liên kết 20,7%; tiêu hoá 8,9%; hệ thần kinh là 8,5%; hệ thống hô hấp và mắt là 7,4%; còn các chuyên khoa khác tỷ lệ mắc lần lượt từ 0,2% đến 6,8%. So sánh kết quả này với nghiên cứu 435 người già điều trị tại bệnh viện Bạch Mai cho thấy tỷ lệ mắc bệnh theo chuyên khoa có những tỷ lệ tương đương và khác nhau như sau:
- Bệnh về hệ tuần hoàn: tỷ lệ mắc bệnh ít hơn (35,5% so với 59,3%).
- Bệnh về hệ thống hô hấp: tỷ lệ mắc bệnh ít hơn (7,4% so với 35,6%).
- Bệnh về hệ tiêu hoá: tỷ lệ mắc bệnh ít hơn (8,9% so với 39,0%).
- Bệnh thần kinh: tỷ lệ mắc bệnh nhiều hơn (8,5% so với 4,6%).

2.4.3 Một số yếu tố liên quan đến nguy cơ mắc bệnh
 
Khi nghiên cứu một số yếu tố liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh ở NCT chúng tôi nhận thấy rằng: tỷ lệ mắc bệnh của các cụ do các yếu tố như nguồn nước, nhà vệ sinh, nghiện thuốc lá, thuốc lào và nghiện rượu là rất cao. Nguồn nước không đảm bảo vệ sinh làm tăng nguy cơ mắc bệnh lên 3,86 lần, nghiện rượu làm tăng nguy cơ mắc bệnh lên gần 2 lần và nghiện thuốc lá, thuốc lào làm tăng nguy cơ mắc bệnh lên 1,24 lần. Như vậy, yếu tố liên quan ảnh hưởng nhiểu nhất đến tỷ lệ mắc bệnh của người cao tuổi trong nghiên cứu này là yếu tố nguồn nước, cần có những hỗ trợ kịp thời để giảm các nguy cơ mắc bệnh ở người cao tuổi.

2.4.4. Công tác chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi

Công tác chăm sóc sức khoẻ cho các cụ là một trong những yếu tố hàng đầu trong công cuộc nâng cao sức khoẻ của người cao tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy người chăm sóc chính cho các cụ khi bị ốm đau là con trai (chiếm 56,7%) sau đó đến con dâu, rể (38,5%) và còn một phần khá lớn các cụ tự chăm sóc (42,2%). Từ đó chúng tôi nhận thấy rằng cần quan tâm hơn nữa tới các cụ khi các cụ bị ốm đau, cần có những chính sách hỗ trợ kịp thời cho những cụ già không nơi nương tựa, những cụ bị ảnh hưởng của chiến tranh.

Qua nghiên cứu có 35,6% các cụ rất hài lòng về sự chăm sóc của gia đình, 45,1% hài lòng và chỉ có 0,8% chưa hài lòng về sự chăm sóc của con cháu. Các tuyến chăm sóc khác như y tế thôn, trạm y tế xã phường, bệnh viên nhà nước tỷ lệ các cụ đánh giá là rất hài lòng còn thấp từ 4,8% - 6,4%, đánh giá là hài lòng cao nhất là 50,5% - 33,5% và tỷ lệ không hài lòng còn khá cao đối với bệnh viện nhà nước 5,2%. Riêng đối với các bác sĩ, phòng khám tư thì tỷ lệ hài lòng và rất hài lòng thấp có thể do các cụ đến khám ở các phòng khám tư ít hơn đến các cơ sở y tế của nhà nước.
 
Theo Lê Thanh Sơn, Phan Lê Thu Hằng 
(Tạp chí DS&PT, số 10/2004, Website Tổng cục DS-KHHGĐ)
thuhuyen
Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn
10 loại thực phẩm cải thiện testosterone - tăng bản lĩnh cho phái mạnh

10 loại thực phẩm cải thiện testosterone - tăng bản lĩnh cho phái mạnh

Dân số và phát triển - 6 giờ trước

Duy trì nồng độ testosterone tối ưu là điều cần thiết cho sức khỏe tổng thể, đặc biệt là khi nam giới lớn tuổi. Một trong những cách hiệu quả và tự nhiên nhất để tăng nồng độ testosterone là thông qua chế độ ăn uống.

Tỏa sáng bản lĩnh và ước mơ qua hội thi “Là con gái để tỏa sáng” ở Nghệ An

Tỏa sáng bản lĩnh và ước mơ qua hội thi “Là con gái để tỏa sáng” ở Nghệ An

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

GĐXH - Hội thi Là con gái để tỏa sáng tại Nghệ An giúp nâng cao kiến thức về dân số và phát triển. Trẻ em gái có cơ hội thể hiện tài năng và tìm hiểu sức khỏe sinh sản.

Quan niệm sai lầm về kiêng khem trong chế độ ăn uống của mẹ sau sinh

Quan niệm sai lầm về kiêng khem trong chế độ ăn uống của mẹ sau sinh

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

Chế độ ăn uống sau sinh đóng vai trò thiết yếu trong việc phục hồi sức khỏe của người mẹ và đảm bảo chất lượng sữa cho em bé. Tuy nhiên, nhiều nơi còn tồn tại rất nhiều quan niệm sai lầm trong ăn uống sau sinh.

Luật Dân số: Thể chế hóa việc chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển

Luật Dân số: Thể chế hóa việc chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

GĐXH – Việc xây dựng dự án Luật Dân số nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ để góp phần thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về dân số và khắc phục các hạn chế, tồn tại, đáp ứng yêu cầu công tác dân số và phát triển trong tình hình mới.

Thai phụ 41 tuổi dọa vỡ tử cung trên sẹo mổ cũ 2 lần may mắn thoát nguy hiểm

Thai phụ 41 tuổi dọa vỡ tử cung trên sẹo mổ cũ 2 lần may mắn thoát nguy hiểm

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

GĐXH - Sản phụ thai 38 tuần, ngôi ngược, chuyển dạ lần 3 trên nền vết mổ lấy thai cũ 2 lần, đoạn dưới tử cung giãn mỏng, nguy cơ dọa vỡ trong chuyển dạ, đe dọa đến tính mạng cả sản phụ và thai nhi.

Mẹ bầu bị COVID-19, con có thể tăng nguy cơ mắc chứng tự kỷ

Mẹ bầu bị COVID-19, con có thể tăng nguy cơ mắc chứng tự kỷ

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

COVID-19 giống như nhiều bệnh nhiễm trùng khác trong thai kỳ có thể gây rủi ro cho người mẹ và cả thai nhi. Nó có liên quan đến nguy cơ mắc các rối loạn phát triển thần kinh cao hơn bao gồm chứng tự kỷ ở trẻ.

Người già khôn ngoan không bao giờ bàn luận 4 điều này với con vì họ biết nói ra dễ xung đột và căng thẳng!

Người già khôn ngoan không bao giờ bàn luận 4 điều này với con vì họ biết nói ra dễ xung đột và căng thẳng!

Dân số và phát triển - 3 ngày trước

Sau khi nghỉ hưu, những người cao tuổi thực sự khôn ngoan sẽ không bao giờ thảo luận bốn điều này với con cái của mình.

Đau bụng bất thường, thai phụ 32 tuần tuổi bất ngờ phát hiện viêm ruột thừa biến chứng nguy hiểm

Đau bụng bất thường, thai phụ 32 tuần tuổi bất ngờ phát hiện viêm ruột thừa biến chứng nguy hiểm

Dân số và phát triển - 3 ngày trước

GĐXH - Sản phụ bị viêm ruột thừa nhập viện trong tình trạng đau cứng bụng, ban đầu đau thượng vị sau đau bụng hố chậu phải lan ra sau lưng.

3 cách phòng ngừa viêm đường tiết niệu ở phụ nữ mang thai

3 cách phòng ngừa viêm đường tiết niệu ở phụ nữ mang thai

Dân số và phát triển - 5 ngày trước

Nhận biết các yếu tố nguy cơ và thực hiện các bước phòng ngừa có thể giúp phụ nữ mang thai giảm thiểu nguy cơ mắc viêm đường tiết niệu, đảm bảo sức khỏe trong suốt thai kỳ.

Estrogen có liên quan gì đến ung thư vú?

Estrogen có liên quan gì đến ung thư vú?

Dân số và phát triển - 5 ngày trước

Có nhiều yếu tố nguy cơ gây ung thư vú trong đó có ảnh hưởng của hormone nữ estrogen. Mối liên hệ này là gì và những phụ nữ nào có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi yếu tố này?

Top