Đòi hỏi những tư duy mới
GiadinhNet - Bên cạnh việc tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng dịch vụ KHHGĐ, chất lượng dân số thì nhiều vấn đề dân số và phát triển nổi lên như những thách thức mới đối với sự phát triển bền vững của nước ta. Điều này đòi hỏi những tư duy mới, nhạy bén và thích hợp về chính sách dân số trong giai đoạn mới.
Tác động sâu rộng đến chất lượng cuộc sống
Gần 30 năm qua, Việt Nam không chỉ quyết liệt đổi mới chính sách kinh tế -xã hội mà còn quyết liệt trong chính sách Dân số - KHHGĐ, vì như Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) nhận định: “Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về trí tuệ, văn hóa và thể lực của giống nòi. Nếu xu hướng này cứ tiếp tục diễn ra thì trong tương lai không xa đất nước sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí những nguy cơ về nhiều mặt”.
Quyết tâm chính trị giải quyết vấn đề dân số tăng nhanh đã được phản ảnh trong các trong các chính sách của nhà nước vào thập kỷ 60 và 70 thế kỷ trước. Đặc biệt, năm 1984, Ủy ban quốc gia về Dân số và sinh đẻ kế hoạch được thành lập. Đại hội lần thứ VI (năm 1986) – Đại hội Đổi mới của Đảng đề ra mục tiêu: “Giảm tỷ lệ phát triển dân số từ 2,2% hiện nay xuống 1,7% vào năm 1990”. Tiếp đó, Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989, Hiến pháp 1992, Pháp lệnh Dân số 2003, các Chiến lược DS-KHHGĐ của Chính phủ, Nghị quyết số 47-NQ/TW của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ,… đã thể hiện chính sách giảm sinh nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, một hệ thống đồng bộ các giải pháp đã được triển khai mà chủ yếu là tuyên truyền giáo dục và đưa dịch vụ đến tận người dân. Kết quả là lĩnh vực sinh sản ở nước ta đã có sự thay đổi căn bản. Nếu bước vào thời kỳ Đổi mới, trung bình mỗi bà mẹ sinh hơn 4 con, thì nay đã giảm xuống, chỉ còn khoảng 2 con và mức sinh thấp hợp lý này đã được duy trì hơn 10 năm. Như vậy, ngày nay, phụ nữ Việt Nam chỉ sinh số con chưa bằng 1/2 cách đây gần 30 năm! Việc sinh đẻ đã chuyển từ hành vi mang tính tự nhiên, bản năng sang hành vi có kế hoạch, văn minh; Từ bị động sang chủ động; Từ trọng số lượng sang trọng chất lượng; Từ sinh đẻ ít trách nhiệm sang sinh đẻ với trách nhiệm đầy đủ hơn. Đây thực sự là một trong những biến đổi xã hội sâu sắc nhất ở Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới và đã tác động sâu rộng đến việc chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội.
Yếu tố cơ bản tạo nên “dân số vàng”
Mức sinh giảm nhanh đã ngăn chặn được nạn “bùng nổ dân số” từ giữa thế kỷ trước và kéo dài nhiều thập kỷ. Năm 2010 nước ta có 86,8 triệu người, thấp hơn nhiều so với mục tiêu 89 triệu người do Chiến lược Dân số 2001-2010 đề ra. Một so sánh thực tế đáng chú ý khác: Năm 1990 dân số Phi-lip-pin ít hơn Việt Nam 5,3 triệu người nhưng đến năm 2010 lại nhiều hơn khoảng 7,1 triệu, nghĩa là từ 1990 đến 2010, Việt Nam đã hạn chế được nhiều hơn Phi-lip-pin tới 12,4 triệu người! Với thành tích về KHHGĐ, năm 1999, Liên hợp quốc đã tặng Giải thưởng Dân số cho Việt Nam.
Nhờ mức sinh thấp, chẳng những quy mô dân số trong phạm vi cả nước tăng chậm lại mà mô hình gia đình nhỏ ở nước ta cũng trở nên phổ biến. Hiện nay, khoảng 75% số gia đình Việt Nam chỉ có 4 khẩu trở xuống. Các cuộc điều tra mức sống dân cư hơn 20 năm nay đều khẳng định quy mô gia đình càng nhỏ thì thu nhập bình quân một người/một tháng càng cao. Như vậy, giảm sinh, quy mô gia đình nhỏ góp phần vào việc xóa đói, giảm nghèo cũng như làm cho các gia đình trở nên khá giả hơn.
Kinh tế gia đình khá hơn, số con ít đi, tạo điều kiện cho các gia đình chăm sóc trẻ em tốt hơn. Tỷ lệ suy dinh dưỡng theo cân nặng những năm 80 lên đến trên 50% thì hiện nay chỉ còn khoảng 15%! Mức sinh giảm nên số dân trong độ tuổi học phổ thông giảm. Kết quả là, so với năm 2001, tỷ lệ nhập học tăng lên nhưng tổng số học sinh phổ thông năm 2010 lại giảm đi tới hơn 3 triệu! Điều này có nghĩa là đã tiết kiệm được hàng chục nghìn phòng học, hàng vạn giáo viên và tháo gỡ sức ép về dân số đối với ngành giáo dục, tạo điều kiện thu hẹp quy mô để nâng cao chất lượng. Hơn nữa, do chỉ có 2 con nên các gia đình có thể cho cả con trai và con gái cùng đi học. Do đó, tỷ lệ nữ sinh trong các trưởng phổ thông cũng như trong các trường trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng và đại học đã tương đương với nam sinh. Bình đẳng giới trong giáo dục là cơ sở vững chắc để phụ nữ nâng cao năng lực và thực hiện bình đẳng toàn diện và đầy đủ.
Mức sinh thấp là yếu tố cơ bản tạo nên “cơ cấu dân số vàng”, tức là thời kỳ cứ 2 người lao động mới có 1 người phụ thuộc (trẻ em hoặc người cao tuổi). Cách đây 30 năm thì gần như cứ 1 lao động có 1 người phụ thuộc. So sánh như vậy cho thấy “gánh nặng phụ thuộc” của Việt Nam đã giảm hẳn một nửa. Điều này tạo thuận lợi cho tiết kiệm và đầu tư. Thời kỳ “Cơ cấu dân số vàng” dự báo sẽ kéo dài 30-35 năm nữa tạo ra nhiều thuận lợi cho phát triển. Hơn nữa, sinh đẻ ít, hàng triệu phụ nữ không phải nghỉ đẻ, có thể tham gia lực lượng lao động đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Kinh nghiệm Nhật Bản cho thấy, sự tham gia của phụ nữ vào thị trường lao động là chìa khóa hồi sinh kinh tế Nhật.
Mức sinh thấp hợp lý góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững
Mức sinh giảm ngăn chặn đà giảm sâu một số chỉ tiêu về tài nguyên, môi trường. Lấy thí dụ về tài nguyên rừng. Rừng có ý nghĩa lớn đối với phát triển bền vững nhưng rừng của nước ta đã bị suy giảm nghiêm trọng. Từ năm 1943 đến năm 1990 diện tích rừng bình quân đầu người ở nước ta giảm từ 0,64 ha/người xuống 0,14 ha/người. Tuy nhiên, gần đây, dân số tăng chậm lại, đồng thời đẩy mạnh việc trồng rừng nên năm 2009 chỉ tiêu này đạt 0,13 ha/người, tức là vẫn giữ được mức năm 1995.
Như vậy, có thể nói rằng, chính sách DS-KHHGĐ trong những năm Đổi mới đã tác động toàn diện và to lớn đến tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường, tức là góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước. Tuy nhiên, hiện trạng dân số nước ta cũng đang đứng trước những thách thức mới: Quy mô dân số lớn, đã đạt hơn 90 triệu người và mật độ dân số rất cao; Mất cân bằng giới tính khi sinh ngày càng nghiêm trọng; Quá trình già hóa diễn ra nhanh hơn so với các nước và Việt Nam khó tránh khỏi tình trạng “già trước khi giàu”; Di cư diễn ra ngày càng mạnh mẽ; Chất lượng dân số chưa cao.…
Rõ ràng, bên cạnh việc tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng dịch vụ KHHGĐ, chất lượng dân số thì nhiều vấn đề dân số và phát triển nổi lên như những thách thức mới đối với sự phát triển bền vững của nước ta. Điều này đòi hỏi những tư duy mới, nhạy bén và thích hợp về chính sách dân số trong giai đoạn mới.
Chính sách DS-KHHGĐ trong những năm Đổi mới đã tác động toàn diện và to lớn đến tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường, tức là góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước. Tuy nhiên, hiện trạng dân số nước ta cũng đang đứng trước những thách thức mới cần nỗ lực chung tay giải quyết.
GS. TS Nguyễn Đình Cử (Nguyên Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội, ĐH Kinh tế quốc dân)
Ung thư buồng trứng có chữa được không?
Dân số và phát triển - 17 giờ trướcUng thư buồng trứng là căn bệnh thường tiến triển âm thầm và triệu chứng không rõ ràng khiến nhiều người chủ quan, khi đi khám đã ở giai đoạn muộn. Vậy ung thư buồng trứng có chữa được không, làm thế nào để phát hiện sớm?
Có phải trẻ béo phì dễ dậy thì sớm?
Dân số và phát triển - 20 giờ trướcTrẻ béo phì có nguy cơ cao dậy thì sớm hơn so với trẻ có cân nặng bình thường. Vậy nguyên nhân tại sao trẻ béo phì lại dễ bị dậy thì sớm và có thể phòng ngừa được không?
Phụ nữ mang thai bị đa ối nên điều chỉnh chế độ ăn như thế nào?
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcĐa ối là khi lượng nước ối vượt quá mức bình thường ảnh hưởng đến sức khỏe cả mẹ và bé. Mặc dù chế độ ăn không phải là yếu tố quyết định duy nhất nhưng việc điều chỉnh chế độ ăn uống hợp lý có thể hỗ trợ cải thiện tình trạng này.
Giảm nguy cơ sinh non khi bà mẹ được quản lý thai nghén đầy đủ
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcNguy cơ sinh non sẽ được giảm thiểu tối đa nếu thai phụ được khám thai và thực hiện sinh tại cơ sở y tế có đầy đủ phương tiện kỹ thuật cùng đội ngũ y bác sỹ trợ giúp.
Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH - Với phương châm "đưa chính sách đến gần dân," xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng (chăm sức khỏe sinh sản, hỗ trợ người cao tuổi) và phát huy vai trò của đội ngũ cộng tác viên dân số.
Bổ ích hội thi rung chuông vàng tìm hiểu kiến thức về dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH - Hội thi giúp cho học sinh nâng cao những kỹ năng hoạt động, kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. Đồng thời, tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích để học sinh thể hiện tài năng, trí tuệ, sự sáng tạo.
Gần 150.000 em bé chào đời nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcSau 25 năm, Việt Nam có gần 300.000 chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm được thực hiện, 147.000 em bé ra đời khoẻ mạnh. Trong đó, có gần 3.000 trẻ được chào đời tại Bệnh viện Hùng Vương nhờ kỹ thuật IVF.
5 biểu hiện cho thấy bạn đã mắc hội chứng ống cổ tay
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcHội chứng ống cổ tay là tình trạng phổ biến trong cộng đồng. Hiện số người mắc hội chứng này ngày càng tăng do liên quan đến công việc có sử dụng nhiều tới độ linh hoạt, tỉ mỉ và lặp đi lặp lại của cổ tay.
Bác sĩ khuyến nghị 5 điều quan trọng nên biết về ung thư buồng trứng
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcPhụ nữ thường hiểu nhầm những dấu hiệu ung thư buồng trứng là triệu chứng của các căn bệnh về phụ khoa khác. Việc biết về dấu hiệu ung thư buồng trứng giúp chị em mắc bệnh được điều trị và sớm tăng tỷ lệ sống.
Tắc ống dẫn trứng: Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcTắc ống dẫn trứng là một trong những nguyên nhân gây vô sinh nữ khá thường gặp. Tình trạng này khiến cho trứng và tinh trùng không gặp được nhau, chiếm khoảng 25-30% trong tất cả các trường hợp vô sinh.
Tuổi 50 nên chọn loại hình tập luyện nào là tốt nhất?
Dân số và phát triểnỞ độ tuổi 50 trở lên, tập luyện thể chất không chỉ tập trung vào nâng cao sức khỏe mà còn hướng đến lối sống năng động, dẻo dai, vui vẻ...