Hà Nội
23°C / 22-25°C

Dự án Luật Dân số: Quy định thế nào về kiểm soát mức sinh?

Thứ hai, 14:06 29/12/2014 | Dân số và phát triển

GiadinhNet - Dự án Luật Dân số được khởi động xây dựng từ cuối năm 2012 nhằm thay thế cho Pháp lệnh Dân số (năm 2003). Một trong các vấn đề rất được dư luận quan tâm, đó là nội dung kiểm soát mức sinh ra sao trong bối cảnh công tác DS-KHHGĐ, tình hình KT-XH có rất nhiều điểm mới, khác biệt so với thời kỳ trước?

 

Để người dân nhiệt tình hưởng ứng Chương trình DS-KHHGĐ là cả một quá trình vận động bền bỉ của ngành Dân số.
ẢNH: DƯƠNG NGỌC
Để người dân nhiệt tình hưởng ứng Chương trình DS-KHHGĐ là cả một quá trình vận động bền bỉ của ngành Dân số. ẢNH: DƯƠNG NGỌC

 

Mức sinh quá cao hay quá thấp đều bất lợi!

Xét trên bức tranh toàn cảnh, trong những năm qua, tổng tỷ suất sinh của Việt Nam liên tục giảm từ 6,39 con (năm 1960) xuống còn 2,09 con năm 2006 (mức sinh thay thế là 2,1 con). Liên tục từ đó đến nay, chúng ta luôn ở dưới mức sinh thay thế. Chỉ tính riêng trong 20 năm qua, theo các nhà khoa học, chúng ta đã tránh sinh được 18 triệu trường hợp. Điều đó có ý nghĩa hết sức to lớn vào sự phát triển KT-XH nói chung, nâng cao mức thu nhập bình quân đầu người, nâng cao các chỉ số sức khỏe, chất lượng cuộc sống của người dân Việt Nam.

Tuy nhiên, trong “bức tranh” mức sinh đó, còn rất nhiều “mảng màu” khác biệt. Theo thống kê vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long có mức sinh thấp hơn nhiều so với mức sinh thay thế (1,5-1,6 con), một số tỉnh cũng đang trong tình trạng mức sinh thấp như TP HCM (1,33 con). Đồng Tháp (1,57 con), Cần Thơ (1,58 con), Cà Mau (1,62 con), Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu (1,7 con)... Tổng tỷ suất sinh như các tỉnh này hiện tương đương với Hàn Quốc, Singapore- những nước đang có các chính sách nỗ lực khuyến khích phụ nữ sinh con do thiếu nguồn nhân lực và dân số già hóa nhanh chóng.

Nếu Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với mức sinh thấp (thậm chí rất thấp) thì những tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên, tỷ suất sinh còn rất cao và đang phải “oằn mình” kiên trì giảm sinh. Tỷ suất sinh thô cả nước hiện nay là 16-17%o, nhưng tỷ suất này ở các tỉnh này lên đến gần 30%o. Nhiều tỉnh như: Hà Giang, Lai Châu, Hà Tĩnh, Đắk Lắk… có TFR (tổng tỷ suất sinh) ở mức trên dưới 3 con. Thậm chí có những nơi, đặc biệt là tại các vùng đồng bào dân tộc ít người, tình trạng sinh tới tận 6-7 người con là chuyện hoàn toàn “bình thường”.

Duy trì mức sinh thấp hợp lý để tận dụng các lợi thế

 

Niềm vui khi đến trường. ẢNH: CHÍ CƯỜNG
Niềm vui khi đến trường. ẢNH: CHÍ CƯỜNG

 

Mặc dù tốc độ gia tăng dân số đã được kiểm soát, nhưng Liên hợp Quốc dự báo mức sinh của nước ta vẫn biến động khó lường, có thể tạo ra những điều kiện thuận lợi nhưng cũng có thể gây những bất lợi đối với sự phát triển của đất nước. Tổng cục DS-KHHGĐ đã đưa ra 3 kịch bản về mức sinh tại nước ta.

Thứ nhất, nếu để mức sinh tăng trở lại và tổng tỷ suất sinh có thể lên tới 2,3-2,5 con/phụ nữ, thì đến năm 2050 quy mô dân số nước ta sẽ đạt cực đại ở mức quá cao khoảng 130-140 triệu người, mật độ dân số cao, khoảng 400 người/km2. Điều này sẽ gây áp lực lớn đối với các lĩnh vực y tế, giáo dục, lao động, việc làm… rất bất lợi đối với sự phát triển KT-XH và cơ cấu nhân khẩu học của đất nước trong tương lai.

Kịch bản khác, nếu để mức sinh giảm xuống quá thấp và tổng tỷ suất sinh chỉ khoảng 1,35 con/phụ nữ (vào khoảng năm 2020), đến năm 2050, quy mô dân số nước ta sẽ đạt cực đại vào khoảng 95-100 triệu người. Điều này sẽ dẫn đến dân số suy giảm, thiếu nguồn lao động, giai đoạn cơ cấu dân số “vàng” ngắn lại; già hóa dân số diễn ra nhanh… rất bất lợi đối với sự phát triển KT-XH và cơ cấu nhân khẩu học của đất nước trong tương lai. Các chuyên gia chia sẻ: Kinh nghiệm các nước cho thấy khi TFR rơi xuống khoảng 1,3 - 1,4 con sẽ không có cách gì nâng lên được. Các nước trên thế giới có một quy luật chung là đã, đang và sẽ thành công trong giảm sinh nhưng hầu như chưa có nước nào thành công trong việc nâng mức sinh lên một khi đã “rơi” xuống quá thấp.

Kịch bản thứ 3, đó là duy trì mức sinh ở mức thấp hợp lý, với tổng tỷ suất sinh khoảng từ 1,9-2,0 con/phụ nữ thì đến năm 2050, quy mô dân số nước ta sẽ ổn định ở mức 115-120 triệu người. Điều này sẽ phát huy được các lợi thế của dân số, đó là quy mô dân số sẽ ổn định ở mức thấp hơn, cơ cấu tuổi của dân số sẽ cân bằng hơn, giảm dần được sự chênh lệch bất lợi về mức sinh giữa các tỉnh, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển bền vững KT-XH của đất nước trong cả hiện tại và tương lai.

Nhiều chuyên gia cho rằng, việc chủ động duy trì mức sinh thấp hợp lý để trong tương lai Việt Nam sẽ có được một quy mô dân số phù hợp với diện tích lãnh thổ, một cơ cấu dân số hợp lý nhất, đảm bảo sự cân đối, hài hòa giữa các độ tuổi; duy trì tương đối ổn định tỷ lệ dân số trong tuổi lao động, kéo dài giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”; làm chậm lại thời gian chuyển đổi từ giai đoạn “già hóa dân số” sang “dân số già”, có cơ hội phát triển các dịch vụ an sinh xã hội và phát huy, chăm sóc người cao tuổi tốt hơn; tạo điều kiện thuận lợi để khống chế sự gia tăng tỷ số giới tính khi sinh, sớm đưa trở lại mức cân bằng tự nhiên.

Điều chính mức sinh sao cho linh hoạt

Theo quan điểm của Ban soạn thảo, Tổ biên tập Dự thảo Luật Dân số (Tổng cục DS-KHHGĐ, Bộ Y tế), biện pháp điều chỉnh mức sinh trong thời gian tới là không đồng nhất cho 63 tỉnh, thành; tạo sự linh hoạt trong chính sách để các địa phương chủ động điều chỉnh sao cho phù hợp với điều kiện từng vùng, miền cụ thể.

Quan điểm này đã nhận được sự đồng tình của lãnh đạo ngành Dân số nhiều địa phương. Tại Thái Bình, lãnh đạo Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh này cho biết: Trong Nghị quyết Chương trình hành động công tác DS-KHHGĐ của tỉnh, Thái Bình vẫn kiên trì công tác giảm sinh do đặc điểm quy mô dân số đông, mật độ dân số dày, số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đang ở mức cao. Do đó, dù đã duy trì mức sinh thay thế trong 13 năm (đạt 2,01 con từ năm 2000) nhưng với Thái Bình, nguy cơ tăng sinh trở lại luôn tiềm ẩn. Thái Bình đặt mục tiêu TFR đạt 1,9 con vào năm 2015 và 1,8 con năm 2020. Dù biết chỉ tiêu này rất khó đạt nhưng tỉnh này vẫn luôn nỗ lực phấn đấu vì tâm lý của một bộ phận người dân vẫn thích có nhiều con.

Nguy cơ tăng sinh trở lại cũng khiến nhiều địa phương kiên trì với mục tiêu giảm sinh trong các kế hoạch ngành, kế hoạch KT-XH của tỉnh hàng năm. Đơn cử, tại Nghị quyết số 78/2013/NQ-HĐND tỉnh Hà Tĩnh ban hành cuối năm 2013 về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác DS-KHHGĐ tỉnh giai đoạn 2014-2020 cho thấy, tỉnh này vẫn đặt kế hoạch kiên trì, nỗ lực thực hiện mục tiêu giảm sinh, giảm nhanh tỷ lệ sinh trên 2 con. Hiện nay, tổng tỷ suất sinh của Hà Tĩnh năm 2013 là 2,75 con/phụ nữ. Nghị quyết chỉ rõ mục tiêu năm sau (2015), Hà Tĩnh phải giảm chỉ tiêu này xuống 2,3 con/phụ nữ, và 2,1 con/phụ nữ vào năm 2020.

Nhiều địa phương cho rằng, Trung ương nên có một khung quy định nhưng nên tạo điều kiện để từng địa phương chủ động linh hoạt xây dựng kế hoạch, chính sách, đặc biệt với những tỉnh có nhóm dân số đặc thù như Sơn La. Song cần tránh tình trạng mỗi tỉnh một “màu” sẽ rất lộn xộn. Bên cạnh đó, ngân sách địa phương cũng cần được bổ sung để khuyến khích tập thể, cá nhân thực hiện tốt mục tiêu giảm nhanh mức sinh, sớm đạt và duy trì mức sinh thay thế.

 

Chiến lược DS-SKSS Việt Nam giai đoạn 2011-2020 được Thủ tướng phê duyệt đã nêu rõ 5 lĩnh vực ưu tiên trong công tác dân số: Giải quyết đồng bộ các vấn đề dân số, sức khoẻ sinh sản, tập trung nâng cao chất lượng dân số, cải thiện sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, phát huy lợi thế cơ cấu “dân số vàng”, chủ động điều chỉnh tốc độ tăng dân số và kiểm soát tỷ số giới tính khi sinh” và đặt ra mục tiêu “duy trì mức sinh thấp hợp lý”. Theo đó, tổng tỷ suất sinh là 1,9 con vào năm 2015 và 1,8 con vào năm 2020.

 

Trong 2 ngày 16 - 17/7 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã chủ trì phiên họp chuyên đề về công tác xây dựng pháp luật. Tại phiên họp, Chính phủ đã nghe các tờ trình từ các Bộ chủ trì soạn thảo, báo cáo thẩm định và tập trung thảo luận, cho ý kiến về nhiều dự án Luật, trong đó có dự án Luật Dân số. Với dự án Luật Dân số (có 9 chương, 59 điều), các thành viên Chính phủ đã khẳng định sự cần thiết xây dựng dự án Luật này, đồng thời đóng góp nhiều ý kiến vào những nội dung lớn của dự án Luật.

 

Võ Thu

Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn
Cực hiếm: Người phụ nữ mang 4 thai tự nhiên

Cực hiếm: Người phụ nữ mang 4 thai tự nhiên

Dân số và phát triển - 7 giờ trước

GĐXH - Theo các bác sĩ, đây là một tình huống đặc biệt hiếm trong sản khoa, với tỷ lệ gặp chỉ khoảng 1/700.000 – 1/800.000 ca mang thai tự nhiên.

Bất ngờ với lý do người vợ trẻ ôm tờ xét nghiệm ADN khóc nức nở

Bất ngờ với lý do người vợ trẻ ôm tờ xét nghiệm ADN khóc nức nở

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

Sau 4 giờ dài dằng dặc chờ đợi kết quả ADN nhưng mọi chuyện không thuận theo mong mỏi, người phụ nữ trẻ ôm tờ kết quả xét nghiệm, gục đầu khóc nức nở.

Bé gái ở Phú Thọ chào đời với cân nặng 5kg

Bé gái ở Phú Thọ chào đời với cân nặng 5kg

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

GĐXH - Sau sinh, trẻ hồng hào, khóc to, phản xạ tốt. Được biết, trong suốt thai kỳ, sản phụ tăng 20kg và hoàn toàn khỏe mạnh.

5 bí quyết chăm sóc ngực mẹ sau sinh giúp tránh tắc tia sữa, nứt núm vú

5 bí quyết chăm sóc ngực mẹ sau sinh giúp tránh tắc tia sữa, nứt núm vú

Dân số và phát triển - 3 ngày trước

Tắc tia sữa, nứt núm vú là tình trạng phổ biến, gây đau đớn và ảnh hưởng đến quá trình nuôi con bằng sữa mẹ. Tuy nhiên, chỉ với vài thói quen chăm sóc ngực đơn giản mỗi ngày, mẹ hoàn toàn có thể phòng tránh hiệu quả.

Tiếng khóc của trẻ báo hiệu bệnh lý, cần cho trẻ kiểm tra sớm

Tiếng khóc của trẻ báo hiệu bệnh lý, cần cho trẻ kiểm tra sớm

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

GĐXH - Theo nghiên cứu, trẻ sơ sinh có thể phát ra từ 5 đến 7 loại tiếng khóc khác nhau, tương ứng với các nhu cầu và cảm xúc khác nhau...

Mẹ bị viêm tuyến vú có cho con bú được không?

Mẹ bị viêm tuyến vú có cho con bú được không?

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

Viêm tuyến vú không những gây khó khăn, đau đớn khi cho con bú mà còn dễ có nguy cơ nhiễm trùng áp-xe vú nếu không được điều trị kịp thời. Vậy mẹ có nên cho con bú khi bị viêm tuyến vú không?

10 dấu hiệu của ung thư tuyến tiền liệt có thể nhầm lẫn với bệnh lý khác

10 dấu hiệu của ung thư tuyến tiền liệt có thể nhầm lẫn với bệnh lý khác

Dân số và phát triển - 5 ngày trước

Ung thư tuyến tiền liệt thường xuất hiện với những triệu chứng khó nhận biết, dễ bị nhầm lẫn với các vấn đề sức khỏe ít nghiêm trọng hơn. Đừng bỏ qua những 10 dấu hiệu dưới đây, bởi việc phát hiện sớm có ý nghĩa quyết định trong điều trị.

Cholesterol cao có thể gây ra rối loạn cương dương?

Cholesterol cao có thể gây ra rối loạn cương dương?

Dân số và phát triển - 6 ngày trước

Nồng độ cholesterol cao không chỉ đe dọa tim mạch mà còn là thủ phạm thầm lặng gây rối loạn cương dương. Tìm hiểu mối liên hệ mật thiết này để bảo vệ sức khỏe nam giới toàn diện hơn.

Thai phụ sinh non, con nặng 1,6kg thừa nhận thường xuyên uống món 'khoái khẩu' này vào buổi sáng

Thai phụ sinh non, con nặng 1,6kg thừa nhận thường xuyên uống món 'khoái khẩu' này vào buổi sáng

Dân số và phát triển - 1 tuần trước

GĐXH - Thai phụ này đã không duy trì chế độ uống nước đều đặn khi mang thai. Thay vào đó, gần như ngày nào cô cũng uống một đến hai cốc trà sữa vào mỗi bữa sáng.

Vòng tránh thai 'đi lạc', cắm sâu vào cơ tử cung người phụ nữ sau 5 năm sử dụng

Vòng tránh thai 'đi lạc', cắm sâu vào cơ tử cung người phụ nữ sau 5 năm sử dụng

Dân số và phát triển - 1 tuần trước

GĐXH - Qua thăm khám, các bác sĩ phát hiện vòng tránh thai đã cắm sâu vào lớp cơ tử cung, vị trí phức tạp và tiềm ẩn nguy cơ tổn thương nếu cố gắng tháo theo phương pháp thông thường.

Top