Báo cáo tham luận của Ban Tuyên giáo Trung ương
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VỚI VIỆC
GIẢM MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH
Vụ Các vấn đề xã hội
Ban Tuyên giáo Trung ương
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội hợp pháp được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là một chỉnh thể thống nhất, gắn bó hữu cơ bao gồm:
- Đảng Cộng sản Việt Nam
- Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Hệ thống tổ chức của Đảng được thành lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước. Hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản Việt nam hiện nay:
- Hệ thống tổ chức đảng bộ, chi bộ (từ cấp Trung ương, cấp tỉnh, huyện, cơ sở, chi bộ);
- Cơ quan lãnh đạo của Đảng các cấp (đại hội, cấp uỷ);
- Cơ quan tham mưu giúp việc cấp uỷ (các ban đảng, đơn vị sự nghiệp của Đảng);
- Tổ chức đảng được lập trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể chính trị xã hội (ban cán sự đảng, đảng đoàn).
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm:
- Cơ quan lập pháp: Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp;
- Chủ tịch nước
- Cơ quan hành chính nhà nước: Chính phủ, uỷ ban nhân dân các cấp và cơ quan tư pháp (Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, cơ quan điều tra các cấp).
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên.
Các đoàn thể nhân dân tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã xác định, vừa vận động đoàn viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ các lợi ích thiết thực, vừa giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội viên, vừa tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội .
Tổ chức của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân (nòng cốt là Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân), các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội khác tuỳ theo tính chất, đặc điểm mà có quy mô tổ chức phù hợp.
Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã - hội, tổ chức xã hội thông qua tổ chức của Đảng được lập trong cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể (Ban cán sự đảng, đảng đoàn); thông qua đội ngũ cấp uỷ viên và đảng viên công tác trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận và đoàn thể; lãnh đạo bằng nghị quyết của Đảng, bằng công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát... Đảng lãnh đạo lực lượng vũ trang tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt và lãnh đạo trực tiếp Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
II. TẠI SAO HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ PHẢI VÀO CUỘC
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội . Thể chế chính trị của Nhà nước ta là Đảng lãnh đạo toàn diện mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội của đất nước, trong đó có công tác DS-KHHGĐ, Nhà nước quản lý và điều hành mọi chủ trương, đường lối của Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng bao gồm cả nội dung và phương thức lãnh đạo . Nội dung lãnh đạo của Đảng là thể hiện tập trung ở đường lối, chủ trương, chính sách lớn, còn phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống phương pháp, hình thức, biện pháp mà Đảng vận dụng để tác động vào hệ thống chính trị và xã hội nhằm đạt được mục tiêu, nội dung lãnh đạo.
Phương thức lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược và bằng các định hướng về chính sách và chủ trương công tác.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo bằng hành động gương mẫu của đảng viên; bằng cách giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, bằng tổ chức kiểm tra.
Từ thực tiễn của quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là của công cuộc đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức một cách sâu sắc vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khi tổng kết quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã nêu ra những bài học cơ bản, trong đó có bài học về sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong nhiều thập kỷ qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước công tác DS-KHHGĐ ở nước ta được thực hiện với tinh thần xã hội hoá, huy động được sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị các cấp, với sự tham gia tích cực của nhiều người dân, cùng với sự giúp đỡ có hiệu quả của các tổ chức quốc tế, chính phủ các nước, các tổ chức phi chính phủ… do vậy, đến nay Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về lĩnh vực này, liên tục từ năm 2005 đến nay chúng ta đã đạt mức sinh thay thế (2,1 con), chất lượng dân số dần được nâng lên, tuổi thọ bình quân đã đạt được 72,8 tuổi… Thành tựu nổi bật về giảm sinh tạo tiền đề vững chắc để sớm ổn định quy mô dân số, góp phần quan trọng vào sự nghiệp sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân.
Kinh nghiệm thực tế ở nước ta cho thấy, trong điều kiện kinh tế – xã hội như nhau, địa phương nào có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao và hiệu quả của cấp uỷ đảng, thì ở đó công tác DS-KHHGĐ sẽ có những kết quả tốt hơn.
Những năm gần đây ở nước ta, hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh diễn ra với tốc độ nhanh, ngày càng lan rộng và đã đến mức nghiêm trọng, thu hút sự quan tâm lo lắng của toàn xã hội. Mất cân bằng giới tính khi sinh dẫn đến tình trạng thừa nam thiếu nữ trong tương lai, không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống của cá nhân, gia đình, các dòng tộc mà còn trở thành tai họa đối với dân tộc và sự phát triển bền vững của đất nước.
Giảm tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, đưa về mức tự nhiên, hợp lý là một bài toán khó, song vẫn có thể giải quyết quyết được nếu có những giải pháp khôn khéo, đủ mạnh, có sự tham gia của các cấp, các ngành, được sự ủng hộ, đồng thuận của người dân, đặc biệt có sự quan tâm, vào cuộc, sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và phải được triển khai thực hiện liên tục và kiên trì, với sự tham mưu nòng cốt của ngành DS-KHHGĐ.
III. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀO CUỘC NHƯ THẾ NÀO
1. Ban hành các văn bản chỉ đạo
Những năm gần đây, nhận thức được nguy cơ và hệ lụy mất cân bằng giới tính khi sinh, Đảng và Nhà nước đã có nhiều văn bản, chính sách nhằm giải quyết tình trạng này:
1) Nghị quyết số 47-NQ/TW, ngày 22 tháng 3 năm 2005 của Bộ Chính trị “về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình”, đưa ra mục tiêu: “Nâng cao chất lượng dân số Việt Nam về thể chất, trí tuệ, tinh thần, cơ cấu nhằm đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
2) Kết luận số 44-KL/TW, ngày 01 - 4 - 2009 của Bộ Chính trị về kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW, ngày 22 - 3 - 2005 của Bộ Chính trị (khoá IX) về "Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình" có nhận định: “tình trạng mất cân bằng giới tính của trẻ sơ sinh đã đến mức báo động” và đề ra nhiệm vụ: “Chủ động kiểm soát và giải quyết các nguyên nhân sâu xa làm mất cân bằng giới tính của trẻ sơ sinh; xử lý nghiêm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi”.
3) Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đưa ra định hướng cho công tác dân số: “Bảo đảm quy mô hợp lý, cân bằng giới tính và chất lượng dân số” (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và “Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm cân bằng giới tính hợp lý, nâng cao chất lượng dân số” (Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020).
4) Pháp lệnh Dân số, số 06/2003/PL-UBTVQH11 ngày 09 tháng 01 năm 2003: Khoản 2, Điều 7 nghiêm cấm “Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức” và Điều 13 quy định “Nhà nước điều chỉnh cơ cấu dân số nhằm bảo đảm cơ cấu dân số hợp lý về giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, ngành nghề và các đặc trưng khác” và “việc điều chỉnh cơ cấu dân số được thực hiện thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng địa phương”.
5) Luật Bình đẳng giới số 73/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006. Điều 4. “Mục tiêu của bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”. Điều 40, khoản 7, mục b quy định các hành vi “Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi giục, ép buộc người khác phá thai vì giới tính của thai nhi” là vi phạm pháp luật về bình đẳng giới.
6) Nghị định 104/2003/NĐ-CP ngày 16/9/2003, Nghị định số 114/2006/NĐ-CP ngày 3/10/2006 của Chính phủ quy định cụ thể việc nghiêm cấm và xử phạt các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi.
7) Chỉ thị số 23/2008/CT-TTg ngày 4/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác DS-KHHGĐ chỉ rõ: “Tăng cường kiểm tra giám sát các hoạt động siêu âm, chẩn đoán giới tính thai nhi; nghiêm cấm việc tuyên truyền, cung cấp thông tin, ấn phẩm về lựa chọn giới tính thai nhi, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm quy định của pháp luật”.
…
Tuy nhiên, trong thời gian tới các cơ quan cần nghiên cứu tham mưu với Đảng, Quốc hội và Chính phủ ban hành những văn bản để phù hợp với tình hình thực tế, đủ mạnh nhằm lãnh đạo, chỉ đạo tất các các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể các cấp triển khai thực hiện đồng bộ giảm mất cân bằng giới tính khi sinh của nước ta.
2. Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác truyền thông, giáo dục và vận động chuyển đổi hành vi
2.1. Nâng cao nhận thức cho lãnh đạo các cấp
Cung cấp đầy đủ, thường xuyên các thông tin dưới nhiều hình thức, có sức thuyết phục cho lãnh đạo Đảng, chính quyền cùng cấp, các nhà hoạch định chính sách, các chức sắc tôn giáo, những người có uy tín trong cộng đồng, các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội nghề nghiệp.
Nội dung thông điệp chủ chốt bao gồm: Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh của cả nước và từng địa phương, nguyên nhân và hệ lụy của tình trạng này, kinh nghiệm quốc tế…
Hình thức cung cấp thông tin: Tổ chức hội nghị, hội thảo về chủ đề mất cân bằng giới tính khi sinh; cung cấp bản tin, tài liệu truyền thông vận động; phát sóng, đăng tải các bản tin, phóng sự, tọa đàm trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Trung ương và địa phương.
2.2. Lãnh đạo nâng cao hiệu quả truyền thông, giáo dục trong cộng đồng
Triển khai mạnh và đồng bộ các hoạt động truyền thông đại chúng và truyền thông trực tiếp về lựa chọn giới tính thai nhi, đặc biệt là giới và bình đẳng giới trong đời sống gia đình với cách tiếp cận và thông điệp phù hợp với từng nhóm đối tượng nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của các cặp vợ chồng, những người đứng đầu dòng họ và gia đình, nam nữ thanh niên chuẩn bị kết hôn và những người cung cấp dịch vụ có liên quan.
Nội dung các thông điệp chủ chốt bao gồm: Quy định pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi, hệ lụy của mất cân bằng giới tính khi sinh đối với gia đình và xã hội, không phân biệt đối xử giữa nam và nữ, giữa con trai và con gái, tích cực tham gia vào việc phát hiện, tố giác các hành vi vi phạm về lựa chọn giới tính thai nhi.
2.3. Lãnh đạo việc giáo dục trong và ngoài nhà trường về giới và bình đẳng giới trong đời sống gia đình
Chỉ đạo ngành Giáo dục và Đào tạo phối hợp với ngành DS-KHHGĐ và các ngành chức năng liên quan trong việc cung cấp kiến thức và kỹ năng cơ bản về giới, bình đẳng giới trong đời sống gia đình; tình trạng và hệ lụy của mất cân bằng giới tính khi sinh vào chương trình học chính khóa của các môn học cho học sinh phù hợp với từng cấp học. Đồng thời tổ chức các hoạt động ngoại khóa phù hợp nhằm tăng cường thời lượng giáo dục giới và bình đẳng giới trong đời sống gia đình.
3. Chỉ đạo nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về cấm lựa chọn giới tính thai nhi
3.1. Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, nhân viên y tế và các thành viên các hội nghề nghiệp có liên quan đối với kiểm soát cân bằng giới tính khi sinh
Chỉ đạo ngành Y tế phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan tăng cường các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật về kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh, bình đẳng giới cho cán bộ, nhân viên y tế bao gồm cả sinh viên các trường đại học, cao đẳng y; xây dựng và thực hành các quy định về không lựa chọn giới tính thai nhi trong quy chế, điều lệ của các tổ chức xã hội nghề nghiệp có liên quan; đẩy mạnh các hoạt động kiểm tra, đánh giá thi đua, biểu dương khen thưởng việc thực hiện pháp luật, quy định, quy chế, điều lệ đối với nhân viên y tế và thành viên các tổ chức xã hội nghề nghiệp có liên quan.
Tạo điều kiện và cơ hội cho các hiệp hội nghề nghiệp tham gia, đóng góp vào việc xây dựng, sửa đổi luật, quy định, quy chế chuyên môn liên quan đến kiểm soát giới tính khi sinh.
3.2. Định hướng từng bước hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh và các nội dung có liên quan
Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật về kiểm soát mất cân bằng GTKS theo hướng quy định chi tiết và cụ thể hơn các hành vi vi phạm, tăng cường khả năng ngăn ngừa và phát hiện vi phạm, tăng mức xử phạt vi phạm, nâng cao và làm rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng đối với mất cân bằng GTKS. Trước mắt tập trung thay đổi những quy định pháp luật nhằm khắc phục tình trạng lạm dụng kỹ thuật cao để lựa chọn giới tính thai nhi (phá thai, các dịch vụ lọc tinh trùng, thụ tinh trong ống nghiệm, sàng lọc phôi thai trước khi cấy ghép, các xét nghiệm sàng lọc giới tính, siêu âm chẩn đoán giới tính, chẩn đoán tế bào, siêu âm theo dõi sự phát triển của trứng, bắt mạch, kê đơn để lựa chọn giới tính...).
3.3. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm các quy dịnh về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi
Chỉ đạo ngành Y tế phối hợp chặt chẽ với ngành Công an và các cơ quan ban, ngành, đoàn thể liên quan cùng nhân dân với nhiều giải pháp hữu hiệu trong việc giám sát, kiểm tra, phát hiện, thanh tra và xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân vi phạm liên quan đến việc lựa chọn giới tính khi sinh.
4. Định hướng các chính sách khuyến khích, hỗ trợ
4.1. Chỉ đạo việc định hướng xây dựng các chính sách hỗ trợ nâng cao vai trò, vị thế của gia đình, trẻ em gái của các gia đình sinh con một bề từ chăm sóc sức khoẻ, học tập, đào tạo nghề, phát triển kinh tế, công ăn, việc làm, đến hỗ trợ chăm sóc tuổi già và các chính sách an sinh xã hội khác, nhằm trước mắt hỗ trợ trẻ em gái và gia đình sinh con một bề là gái, lâu dài thay đổi nhận thức, tư tưởng của người dân và cộng đồng thoải mái trong việc xác định sinh con trai cũng như sinh con gái.
4.2. Chỉ đạo việc nghiên cứu nhằm xây dựng các chính sách nhằm nhằm thay đổi các tập quán, phong tục lạc hậu ảnh hưởng đến việc lựa chọn giới tính khi sinh.
4.3. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới DS-KHHGĐ ở tuyến cơ sở, nhằm nâng cao năng lực tuyên truyền, vân động, thuyết phục người dân thay đổi nhận thức, chấp nhận tự nguyện các chính sách về DS-KHHGĐ, cải thiện khả năng thu thập thông tin, quản lý cho đội ngũ làm công tác này.
5. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo sự phối hợp liên ngành
Giảm mất cân bằng giới tính khi sinh là một vấn đề xã hội, do vậy phải giải quyết theo tinh thần xã hội hoá, trong đó, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và các tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng các cấp.
Cấp uỷ Đảng và chính quyền cần nghiên cứu giao trách nhiệm cụ thể, phù hợp cũng như giám sát việc triển khai thực hiện của các các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, phát huy sức mạnh của các tổ chức, cộng đồng và mọi người dân, huy động tối đa các nguồn lực trong cộng đồng và xã hội để giải quyết tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.
Cần có sự lãnh đạo chặt chẽ của các tổ chức Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Đối với các nhà lãnh đạo (bao gồm lãnh đạo Đảng, nhà nước các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội) có trách nhiệm tổ chức thực hiện, vận động, giám sát và tạo điều kiện để mọi thành viên trong xã hội tham gia vào việc giảm mất cân bằng giới tính khi sinh.
Đối với cộng đồng và mỗi người dân: có trách nhiệm tham gia tích cực, chủ động và tự nguyện thực hiện các hoạt động nhằm giảm mất cân bằng giới tính khi sinh. Đây là yếu tố quyết định đảm bảo tính bền vững và sự thành công của bài toán này.
Điều quan trọng trước tiên là phải làm chuyển đổi, bổ sung và nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho tất cả các nhóm đối tượng, bao gồm những nhà lãnh đạo Đảng, chính quyền, các tổ chức xã hội, đoàn thể, ban ngành liên quan, mỗi cộng đồng và mỗi người dân đối với việc giảm mất cân bằng giới tính khi sinh. Tiếp đến là cán bộ, đảng viên, các nhà lãnh đạo cộng đồng cần làm gương chấp hành tốt trong gia đình mình, rồi dần thuyết phục, vận động người thân, dòng họ và mọi người dân trong cộng đồng làm theo.
Trong những năm qua Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Tổng cục DS-KHHGĐ đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo chuyên đề về mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam cho lãnh đạo ngành Tuyên giáo và ngành DS-KHHGĐ ở một số địa phương có Dự án của Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNFPA). Để có thể giảm mất cân bằng giới tính khi sinh có hiệu quả và bền vững, trong thời gian tới cần sự vào cuộc cả hệ thống chính trị một cách toàn diện, với quy mô toàn quốc.
Nhằm tạo điều kiện, nâng cao năng lực tham mưu cho cấp uỷ Đảng các cấp lãnh đạo, chỉ đạo sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể triển khai thực hiện giảm mất cân bằng giới tính khi sinh, trong thời gian tới Bộ Y tế, mà trực tiếp là Tổng cục DS-KHHGĐ cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cơ quan tham mưu, đặc biệt là Ban Tuyên giáo Trung ương thực hiện các hoạt động sau:
- Cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời về giới tính khi sinh cho lãnh đạo Ban và các vụ, đơn vị chức năng của Ban Tuyên giáo Trung ương để có điều kiện tham mưu cho Đảng tốt hơn.
- Định kỳ cung cấp thông tin về giới tính khi sinh trong các cuộc giao ban báo chí với đại diện lãnh đạo các báo, trong các hội nghị báo cáo viên công tác Tuyên giáo toàn quốc để kịp thời đăng tin, thông điệp và định hướng tuyên truyền liên quan đến giới tính khi sinh.
- Tập huấn cho đội ngũ làm công tác Tuyên giáo từ Trung ương đến cơ sở những kiến thức về giới tính khi sinh (thực trạng, nguyên nhân, kinh nghiệm quốc tế…) nhằm nâng cao khả năng tham mưu cho cấp uỷ Đảng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo sự phối hợp hoạt động của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể cùng cấp triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp để giảm mất cân bằng giới tính khi sinh.
- Tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các cấp uỷ Đảng địa phương trong việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nhằm giảm mất cân bằng giới tính khi sinh ở địa phương mình; kịp thời phát hiện những khó khăn, hạn chế để uốn nắn hoặc nghiên cứu, báo cáo với lãnh đạo các cấp nghiên cứu biện pháp khắc phục.
Giảm mất cân bằng giới tính khi sinh là một việc làm khó, song có thể làm được.
Giảm mất cân bằng giới tính khi sinh không thể giải quyết một sớm một chiều mà cần phải có các giải pháp đồng bộ mang tính chiến lược giải quyết lâu dài.
Mất cân bằng giới tính khi sinh là một vấn đề đề xã hội, do vậy phải giải quyết bằng con đường xã hội hoá, có sự tham gia đồng bộ của tất cả các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, với sự tham mưu nòng cốt của ngành DS-KHHGĐ và sự tham gia tự nguyện của mọi người dân, dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng các cấp; trong đó, cán bộ, đảng viên cần gương mẫu thực hiện nghiêm trước; có các chế tài đủ mạnh để thuyết phục và răn đe; có các chính sách cụ thể đồng bộ nhằm động viên, khuyến khích, hỗ trợ cán bộ và người dân thực hiện cũng như cải thiện phong tục tập quán người dân và cộng đồng theo hướng tích cực, văn minh.
Nghệ An tổ chức Hội thi 'Người cao tuổi sống vui, sống khoẻ'
Dân số và phát triển - 9 giờ trướcGĐXH - Hội thi là hoạt động thiết thực nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm cho cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về người cao tuổi. Đồng thời, khẳng định vai trò, sự cống hiến của người cao tuổi đối với mọi mặt của đời sống...
Ung thư buồng trứng có chữa được không?
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcUng thư buồng trứng là căn bệnh thường tiến triển âm thầm và triệu chứng không rõ ràng khiến nhiều người chủ quan, khi đi khám đã ở giai đoạn muộn. Vậy ung thư buồng trứng có chữa được không, làm thế nào để phát hiện sớm?
Có phải trẻ béo phì dễ dậy thì sớm?
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcTrẻ béo phì có nguy cơ cao dậy thì sớm hơn so với trẻ có cân nặng bình thường. Vậy nguyên nhân tại sao trẻ béo phì lại dễ bị dậy thì sớm và có thể phòng ngừa được không?
Phụ nữ mang thai bị đa ối nên điều chỉnh chế độ ăn như thế nào?
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcĐa ối là khi lượng nước ối vượt quá mức bình thường ảnh hưởng đến sức khỏe cả mẹ và bé. Mặc dù chế độ ăn không phải là yếu tố quyết định duy nhất nhưng việc điều chỉnh chế độ ăn uống hợp lý có thể hỗ trợ cải thiện tình trạng này.
Giảm nguy cơ sinh non khi bà mẹ được quản lý thai nghén đầy đủ
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcNguy cơ sinh non sẽ được giảm thiểu tối đa nếu thai phụ được khám thai và thực hiện sinh tại cơ sở y tế có đầy đủ phương tiện kỹ thuật cùng đội ngũ y bác sỹ trợ giúp.
Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcGĐXH - Với phương châm "đưa chính sách đến gần dân," xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng (chăm sức khỏe sinh sản, hỗ trợ người cao tuổi) và phát huy vai trò của đội ngũ cộng tác viên dân số.
Bổ ích hội thi rung chuông vàng tìm hiểu kiến thức về dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcGĐXH - Hội thi giúp cho học sinh nâng cao những kỹ năng hoạt động, kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. Đồng thời, tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích để học sinh thể hiện tài năng, trí tuệ, sự sáng tạo.
Gần 150.000 em bé chào đời nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcSau 25 năm, Việt Nam có gần 300.000 chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm được thực hiện, 147.000 em bé ra đời khoẻ mạnh. Trong đó, có gần 3.000 trẻ được chào đời tại Bệnh viện Hùng Vương nhờ kỹ thuật IVF.
5 biểu hiện cho thấy bạn đã mắc hội chứng ống cổ tay
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcHội chứng ống cổ tay là tình trạng phổ biến trong cộng đồng. Hiện số người mắc hội chứng này ngày càng tăng do liên quan đến công việc có sử dụng nhiều tới độ linh hoạt, tỉ mỉ và lặp đi lặp lại của cổ tay.
Bác sĩ khuyến nghị 5 điều quan trọng nên biết về ung thư buồng trứng
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcPhụ nữ thường hiểu nhầm những dấu hiệu ung thư buồng trứng là triệu chứng của các căn bệnh về phụ khoa khác. Việc biết về dấu hiệu ung thư buồng trứng giúp chị em mắc bệnh được điều trị và sớm tăng tỷ lệ sống.
Tuổi 50 nên chọn loại hình tập luyện nào là tốt nhất?
Dân số và phát triểnỞ độ tuổi 50 trở lên, tập luyện thể chất không chỉ tập trung vào nâng cao sức khỏe mà còn hướng đến lối sống năng động, dẻo dai, vui vẻ...