Hà Nội
23°C / 22-25°C

Báo cáo Tổng quan về mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt nam

BÁO CÁO TỔNG QUAN

VỀ MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH Ở VIỆT NAM

I. Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam

1. Tình hình

Tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) là tỷ số giữa trẻ em trai sinh ra sống so với trẻ em gái sinh ra sống trong cùng một khoảng thời gian. Trong trường hợp không có sự can thiệp, tỷ số này phổ biến ở hầu hết các dân số là 105-107 trẻ trai trên 100 trẻ gái.

Hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh bắt đầu xảy ra ở một số nước có truyền thống ưa thích con trai thuộc các khu vực Đông Á, Nam Á, Trung Á và Bắc Phi từ những năm cuối của thập kỷ 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX[1].

Nằm trong vùng ảnh hưởng của truyền thống ưa thích con trai, nạo phá thai được pháp luật cho phép, chương trình kế hoạch hoá gia đình được triển khai rộng khắp trên cả nước, song trong một thời gian dài, TSGTKS ở Việt Nam vẫn ở mức bình thường. Các số liệu của Tổng điều tra dân số 1979, 1989 và 1999 cho thấy TSGTKS có dao động tăng lên, song không đáng kể[2].

Vào đầu thế kỷ XXI đã có một vài dấu hiệu cho thấy TSGTKS ở Việt Nam bắt đầu biến đổi theo hướng mất cân bằng[3] và càng ngày càng gia tăng nhanh chóng. Số liệu từ các cuộc điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình hàng năm do Tổng cục Thống kê tiến hành và Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009 cho thấy, ở Việt Nam, mất cân bằng GTKS đã bước vào mức cao, tốc độ gia tăng nhanh và ngày càng lan rộng, thu hút sự chú ý của các nhà hoạch định chính sách và dư luận xã hội.

Biểu 1: Thay đổi TSGTKS ở Việt Nam

Nguồn: TCTK, số liệu các cuộc điều tra dân số và kế hoạch hoá gia đình ¼ hàng năm.

Việt Nam được chia ra 6 vùng kinh tế - xã hội thì năm 2009 chỉ còn duy nhất vùng các tỉnh Tây Nguyên có TSGTKS ở mức bình thường (105), còn 5/6 vùng còn lại đều đã có tình trạng mất cân bằng GTKS, trong đó vùng có TSGTKS cao nhất là các tỉnh, thành phố thuộc khu vực Đồng bằng Sông Hồng (113,6).

Số liệu phân tích Kết quả Tổng điều tra dân số 1/4/2009 cho thấy có 45/63 tỉnh, thành phố có TSGTKS mất cân bằng, tập trung ở các vùng đồng bằng sông Hồng, Duyên hải Miền Trung, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó những tỉnh, thành phố có TSGTKS cao nhất (từ 120-130) đều thuộc khu vực Đồng bằng Sông Hồng.

Phân tích số liệu thông kế chuyên ngành Dân số - Kế hoạch hóa gia đình năm 2012 tính đến 8 tháng đầu năm 2012 tỷ số giới tính khi sinh đã ở mức 112,67.

2. Một số đặc điểm của TSGTKS ở Việt Nam

TSGTKS ở Việt Nam có một số đặc điểm đáng lưu ý đối với việc xem xét, tìm kiếm các giải pháp can thiệp làm giảm thiểu mất cân bằng GTKS.

Gắn liền với sự ưa thích con trai và lựa chọn giới tính khi sinh, nên cũng tương tự như các nơi khác, TSGTKS  ở Việt Nam có tương quan chặt chẽ với số lần sinh, và đặc biệt cao ở những lần sinh sau. Ở lần sinh thứ 3 trở lên, tỷ số này là 115,5 trẻ em trai so với 100 trẻ em gái. Ở những gia đình mới có 2 con gái thì ở lần sinh thứ 3, TSGTKS là rất cao (133).

Tuy nhiên, ở một số nước khác có tình trạng mất cân bằng GTKS thì dường như việc lựa chọn GTKS không được áp dụng đối với đứa con đầu lòng mà chỉ áp dụng đối với lần sinh thứ hai trở lên[4]. Trong khi đó ở Việt Nam, TSGTKS của lần sinh thứ nhất đã ở mức khá cao (110,2). Có thể hiện tượng này là một biến thái của “Quy luật dừng” trong điều kiện quy mô gia đình ít con đã được chấp nhận như là một giá trị phổ biến ở Việt Nam song tâm lý nhất thiết phải có con trai đã ảnh hưởng đến quyết định “ăn chắc” ngay từ lần sinh đầu tiên của các cặp vợ chồng.

TSGTKS có tương quan khá chặt chẽ với trình độ học vấn của các cặp vợ chồng. Ở Việt Nam, những bà mẹ có trình độ học vấn càng cao thì dường như lựa chọn GTKS càng được áp dụng phổ biến hơn. TSGTKS ở nhóm phụ nữ không biết chữ là 107 và tăng dần đến 114 ở nhóm phụ nữ có trình độ cao đẳng trở lên.

Quan hệ giữa TSGTKS với thu nhập và mức sống cũng có tình hình tương tự. Trong khi TSGTKS của phụ nữ ở nhóm 20% dân số nghèo nhất đều nằm ở mức bình thường (105-106). Dù ở lần sinh thứ 3 trở lên, thì TSGTKS ở nhóm dân số nghèo cũng chỉ nhỉnh hơn mức bình thường chút ít (108 ở lần sinh thứ 3). Trong khi đó, ở các nhóm dân số trung bình, giàu và giàu nhất tỷ số này đã ở mức cao ngay từ lần sinh thứ nhất (từ 111 đến 112). Đặc biệt ở lần sinh thứ 3 trở lên thì ở 3 nhóm dân số này, TSGTKS rất cao, 116, 121 và 133 lần lượt từ mức thu nhập trung bình, giàu và giàu nhất.

Rõ ràng là trong một xã hội mà sự ưa thích con trai vẫn còn rất mạnh mẽ thì trình độ học vấn càng cao, điều kiện kinh tế gia đình càng khá giả thì càng giúp cho các cặp vợ chồng có điều kiện tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ can thiệp lựa chọn giới tính khi sinh. Một yếu tố quan trọng khác liên quan đến việc lựa chọn GTKS ở các gia đình khá giả là mức sinh thấp có thể đã làm tăng nhu cầu lựa chọn GTKS. Cũng giống như hầu hết các khu vực khác của thế giới, ở Việt Nam, các gia đình khá giả, có trình độ học vấn cao hơn có mức sinh thấp hơn nhiều so với các gia đình có thu nhập và trình độ học vấn thấp[5]

3. Xu hướng

Từ khi xác định được một cách rõ rệt tình trạng mất cân bằng GTKS đến nay, trong 6 năm qua TSGTKS ở Việt Nam tăng nhanh, tăng liên tục. Ở một số nước khác, để đạt mức TSGTKS là 110 phải qua thời gian 10 năm, trong khi đó ở Việt Nam chỉ khoảng 5 năm.   

          Mặt khác, theo quy luật phổ biến các giá trị xã hội và các kết quả quan sát được, đã có những bằng chứng cho thấy sự gia tăng TSGTKS có vẻ sẽ lan sang các nhóm dân cư khác và sang các khu vực còn lại trong một tương lai gần, tiềm ẩn khả năng gia tăng hơn nữa TSGTKS của cả nước.

Trong bối cảnh đó, rất khó có thể dự báo chính xác TSGTKS của Việt Nam sẽ biến đổi như thế nào trong tương lai. Tuy nhiên, các nhà khoa học của Việt Nam và Quốc tế đã hợp tác và đưa ra 3 kịch bản mô phỏng cho những biến đổi này cho đến năm 2049.

          - Kịch bản 1 (không can thiệp) TSGTKS dự báo sẽ tăng lên 115 vào năm 2015 và duy trì ở mức này cho đến giữa thế kỷ.

         - Kịch bản 2 (có sự can thiệp) TSGTKS sẽ diễn ra chậm hơn và ở mức 115 vào năm 2020, sau đó dần giảm xuống mức bình thường vào khoảng năm 2030. Kịch bản này hàm ý có những can thiệp về chính sách và sự thay đổi xã hội sẽ  kiềm chế, mức độ gia tăng và kéo TSGTKS trở về mức bình thường.

          - Kịch bản 3 dựa trên giả thuyết TSGTKS ổn định ở mức bình thường (105) cho suốt giai đoạn 1999-2049. Kịch bản giả định, không có thật này chỉ mang ý nghĩa để tính toán số lượng dân số nam dư thừa so với các phương án khác.

Ngoại trừ kịch bản 3, là tình huống mà tổng dân số nam giới sẽ nhiều hơn nữ không lớn, còn cả 2 tình huống dự báo 1 và 2 thì bắt đầu từ năm 2020 trở về sau, tổng dân số nam sẽ nhiều hơn dân số nữ. Trong tình huống TSGTKS cao và không có can thiệp nhằm giảm tình trạng lựa chọn GTKS, tỷ số giới tính của nhóm dân số trong độ tuổi trưởng thành sẽ tăng không ngừng, từ mức 100 hiện nay lên 105 vào năm 2029 và 113 vào năm 2049. Tương ứng số lượng trẻ em nam dư thừa được dự báo là gần 60 ngàn mỗi năm trong suốt một giai đoạn 2009-2049[6].

II. Hậu quả của việc gia tăng TSGTKS

Mặc dù còn hàng thập kỷ nữa những hậu quả của mất cân bằng GTKS ở Việt Nam mới hiện hữu trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, dựa vào những bằng chứng và kết quả nghiên cứu từ những nơi có TSGTKS cao xảy ra trước[7] có thể dự báo trước được những hậu quả của mất cân bằng TSGTKS đang xảy ra hiện nay ở Việt Nam.

Là một xã hội có thiết chế gia đình là phổ biến, tình trạng dư thừa nam giới trong độ tuổi kết hôn có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng trong thị trường hôn nhân. Một bộ phận nam giới có thể sẽ phải trì hoãn việc kết hôn và nhiều người trong số họ không thể kết hôn. Bên cạnh đó việc gia tăng tuổi kết hôn của phụ nữ (độ tuổi này hiện nay là 22,8) đi liền với những thay đổi về kinh tế - xã hội và các luồng di cư lại càng làm trầm trọng hơn nữa tình trạng này.

Một vấn đề khác là nhiều đàn ông trong số này là nông dân sống ở nông thôn, tầng lớp kinh tế - xã hội thấp, trình độ học vấn không cao. Một khi trên thị trường hôn nhân xảy ra tình trạng thiếu phụ nữ, thì rõ ràng là họ sẽ không phải là đối tượng được chọn để kết hôn. Do vậy, họ sẽ bị đẩy ra ngoài lề xã hội vì không có triển vọng lập gia đình và rất ít cơ hội giải toả năng lượng tình dục. Đây chính là một trong những căn nguyên của những hành vi chống đối xã hội và gia tăng bạo lực đe doạ an ninh và trật tự xã hội.

Một số hậu quả khác do thừa nam thiếu nữ có thể thấy trước được là việc gia tăng quy mô các hoạt động mãi dâm (là hoạt động không hợp pháp theo Pháp luật Việt Nam), và cả những hành vi không thể chấp nhận được như cưỡng dâm, bắt cóc và buôn bán phụ nữ, buôn bán trẻ em gái.

Cuối cùng, việc khan hiếm phụ nữ có thể làm tăng giá trị cho người phụ nữ, song trong xã hội nông thôn thì việc tăng giá trị của người phụ nữ không mang lại lợi ích cho chính họ mà mang lại lợi ích cho những người đàn ông trong gia đình họ. Giá trị của phụ nữ nằm trong tay cha, chồng và gia đình nhà chồng (ngoại trừ những phụ nữ có kinh tế độc lập và phần đông sống ở khu vực thành thị). Một khi giá trị của họ tăng lên, cuộc sống của họ càng bị đàn ông kiểm soát gắt gao hơn.

III. Những hoạt động can thiệp giảm thiểu tình trạng mất cân bằng GTKS ở Việt Nam

Nhận thức rõ những hậu quả trong tương lai của việc gia tăng TSGTKS, với mong muốn giảm thiểu mất cân bằng GTKS, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều hoạt động can thiệp tích cực về xây dựng và thực hiện pháp luật, truyền thông thay đổi hành vi, tăng cường nghiên cứu và thu thập thông tin về TSGTKS.

1. Xây dựng và thực hiện pháp luật

1.1. Ban hành phát luật

a. Pháp lệnh Dân số năm 2003; Nghị định số 104/2003/NĐ-CP ngày 16/9/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số; Nghị định 114/2006/NĐ-CP ngày 03/10/2006 quy định xử phạt vi phạm hành chính về dân số và trẻ em, nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi:

- Nghiêm cấm tuyên truyền, phổ biến phương pháp chọn lọc giới tính thai nhi dưới các hình thức: tổ chức nói chuyện, viết, dịch, phát hành các loại sách, báo, tài liệu, tranh, ảnh, ghi hình, ghi âm; tàng trữ, lưu truyền tài liệu, phương tiện và các hình thức tuyên truyền, phổ biến khác về phương pháp chọn lọc giới tính thai nhi.

- Nghiêm cấm chẩn đoán giới tính thai nhi bằng biện pháp như: xác định giới tính thai nhi qua triệu chứng, bắt mạch; xét nghiệm máu, gen, nước ối, tế bào; siêu âm.

- Nghiên cấm loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính bằng các biện pháp: phá thai, cung cấp, sử dụng các loại hoá chất, thuốc và biện pháp khác.

b. Luật Bình đẳng giới ban hành ngày 29/11/2006 xác định các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế bao gồm:

- Cản trở, xúi giục hoặc ép buộc người khác không tham gia các hoạt động giáo dục sức khỏe vì định kiến giới;

- Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi giục, ép buộc người khác phá thai vì giới tính của thai nhi.

c. Chiến lược Dân số- Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020 nêu mục tiêu:

Tại Quyết định số 2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ  Phê duyệt Chiến lược Dân số - Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020, đã xác định mục tiêu thực hiện trong giai đoạn (mục tiêu cụ thể 4):

Giảm mạnh tốc độ tăng tỷ số GTKS, đặc biệt tập trung vào các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tình trạng mất cân bằng nghiêm trọng về tỷ số GTKS, tiến tới đưa tỷ số này trở lại mức 105-106 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ so sinh gái khoảng năm 2025.

Chỉ tiêu: Tỷ số GTKS dưới mức 113 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái vào năm 2015 và dưới mức 115/100 vào năm 2020.

 

1.2. Tăng cường thực thi pháp luật, chính sách liên quan đến mất cân bằng giới tính khi sinh

1.2.1 Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, bộ, ngành liên quan (Cục Báo chí, Bộ Thông tin-Truyền thông; Vụ Báo chí, Ban Tuyên giáo Trung ương…) trong việc chấn chỉnh các cơ quan báo chí, nhà xuất bản về tuyên truyền, phổ biến các phương pháp và kỹ thuật về lựa chọn giới tính.

1.2.2. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 05/TB-VPCP ngày 04/01/2012 của Văn phòng Chính phủ, trong đó giao Bộ Y tế “có chương trình làm việc cụ thể với tỉnh/thành ủy và Ủy ban nhân dân (UBND)10 tỉnh/thành phố có tỷ số giới tính khi sinh cao nhất (từ 115 trở lên) để khắc phục cho được tình trạng này”; Bộ Y tế đã tổ chức 03 Đoàn công tác do Lãnh đạo Bộ Y tế làm trưởng đoàn, làm việc với tỉnh/thành ủy và UBND 10 tỉnh/thành phố gồm: Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định, Hòa Bình, Vĩnh Phúc và Quảng Ngãi.

Với sự quan tâm chỉ đạo của tỉnh/thành ủy, UBND 10 tỉnh/thành phố nhìn chung việc chuẩn bị các nội dung làm việc với đoàn công tác của Bộ Y tế đúng với yêu cầu đặt ra.

Theo đánh giá của các đoàn công tác cho thấy, mặc dù các cấp ủy Đảng, Chính quyền đã vào cuộc nhưng kết quả giải quyết vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh chưa đạt yêu cầu đề ra. Tỷ số giới tính khi sinh ở hầu hết địa phương này vẫn tiếp tục tăng.

(Phụ lục báo cáo kèm theo)

1.2.3. Tăng cường quản lý, theo dõi, kiểm tra tình hình chẩn đoán bằng siêu âm về giới tính thai nhi và nạo phá thai vì lý do lựa chọn giới tính. Tổ chức kiểm tra các cơ sở cung cấp dịch vụ liên quan đến lựa chọn giới tính thai nhi; các nhà xuất bản, trang Web tuyên truyền trái pháp luật về lựa chọn giới tính thai nhi.

Trong hơn 3 năm qua (từ năm 2009 đến nay), Thanh tra Tổng cục DS-KHHGĐ phối hợp với Thanh tra một số bộ và địa phương đã triển khai chuyên đề thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về cấm lựa chọn giới tính thai nhi, trong đó tập trung vào 2 nội dung chính là: (i) Thanh tra, kiểm tra công tác khám, chữa bệnh và quản lý thai nghén; (ii) Thanh tra, kiểm tra việc xuất bản, phát hành, kinh doanh sách và lưu truyền trang thông tin điện tử có nội dung phổ biến phương pháp tại giới tính thai nhi.

- Qua công tác thanh tra, kiểm tra công tác khám, chữa bệnh và quản lý thai nghén, Đoàn thanh tra, kiểm tra đã đưa ra một số nhận xét như sau:

Tình hình siêu âm và thông báo về giới tính là rất phổ biến song cũng rất khó khăn thu thập chứng cứ khi tiến hành thanh tra, kiểm tra tại các cơ sở. Tuy vậy kết quả cũng đã phát hiện ra 5 cơ sở có hành vi siêu âm chẩn đoán giới tính.

Qua thanh tra, kiểm tra cho thấy hầu hết các ca phá thai đều dưới 12 tuần tuổi (chiếm 93,9%), còn các ca từ 12 tuần tuổi trở lên thì hầu hết phá thai do bệnh lý. Do đó có thể nhận định rằng việc phát thai có liên quan đến lựa chọn giới tính là chưa vững chắc.

Tại các cơ sở y tế công lập, chưa phát hiện trường hợp nào chẩn đoán bằng phương pháp siêu âm hoặc dùng các phương pháp khác như xác định qua triệu chứng, bắt mạch; xét nghiệm máu, gen, nước ối, tế bào để xác định giới tính thai nhi. Chưa phát hiện trường hợp nào thực hiện hút thai, nạo phá thai hoặc cung cấp, sử dụng các loại thuốc, hóa chất để loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính.

Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho các cơ sở y tế còn rất hạn chế, nhất là đối với các cơ sở y tế ngoài công lập;

Các văn bản đã ban hành còn nhiều bất cập như: vấn đề chỉ định về phá thai nội khoa tại Thông tư 07/2007/TT-BYT ngày 25/5/2007 không thống nhất với Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc SKSS. Hoặc chưa có bộ hồ sơ phá thai được áp dụng trong toàn ngành y tế (hiện nay các bệnh viện theo hướng dẫn của Cục quản lý khám, chữa bệnh, các Trung tâm chăm sóc SKSS theo hướng dẫn của Vụ Sức khoẻ Bà mẹ - Trẻ em). Chưa có hướng dẫn nào về việc nữ hộ sinh đại học được phép chỉ định, ghi ký tên bệnh án.

- Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Tổng cục DS-KHHGĐ đã phối hợp với Thanh tra Bộ Thông tin truyền thông tiến hành thanh tra, kiểm tra nội dung phổ biến phương pháp tạo giới tính thai nhi trên các ấn phẩm tuyên truyền và trên trang thông tin điện tử tại 74 đơn vị (gồm: 12 Nhà xuất bản; 11 Tổng công ty, Công ty phát hành sách; 50 Nhà sách; 13 cơ quan chủ quản trang thông tin điện tử) ở 10 tỉnh, thành phố [8].

Qua hoạt động thanh tra, kiểm tra về nội dung này, Đoàn thanh tra đã có kiến nghị cụ thể đối với từng cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành về lĩnh vực xuất bản, truyền thông và y tế - dân số, trong đó tập trung vào một số hoạt động như: Tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động xuất bản, tuyên truyền; Kiểm soát chặt chẽ nội dung các ấn phẩm trước khi lưu hành, các thông tin, bài viết được đăng tải trên Internet; xử lý nghiêm các đơn vị, cá nhân vi phạm quy định của pháp luật về cấm lựa chọn giới tính thai nhi;…

2. Xây dựng, triển khai hoạt động can thiệp tại cộng đồng

-  “Đề án can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh”

Năm 2009, Việt Nam đã xây dựng, triển khai “Đề án can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh” tại 11 tỉnh, thành phố có tỷ số giới tính khi sinh cao nhằm từng bước khống chế tốc độ gia tăng mất cân bằng, tiến tới ổn định, cân bằng giới tính khi sinh. Các mục tiêu cụ thể của Đề án gồm:

Tăng cường cung cấp thông tin về tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh cho người dân, trước hết là các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, những người cung cấp dịch vụ siêu âm và dịch vụ nạo phá thai, những người có uy tín trong cộng đồng nhằm hạn chế các hành vi không phù hợp với việc sinh đẻ theo quy luật tự nhiên.

Tăng cường thực thi và hoàn thiện hệ thống pháp luật về các nội dung liên quan đến giới tính khi sinh.

Khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ, trẻ em gái trong học tập, chăm sóc sức khoẻ sinh sản và phát triển sản xuất.

Đề án đã đạt được kết quả bước đầu, được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp ủy Đảng chính quyền địa phương. Đến năm 2011, đề án đã được triển khai tại 43 tỉnh/ thành phố trong cả nước.

- Phối hợp với UNFPA và Trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam xây dựng, triển khai mô hình huy động phật tử, giáo dân tham gia giải quyết mất cân bằng giới tính khi sinh ở một số địa phương. Mô hình đã đạt được một số kết quả bước đầu.

3. Can thiệp thông qua việc lồng ghép các hoạt động truyền thông, hỗ trợ an sinh xã hội và thực hiện bình đẳng giới

- Phối hợp với các cơ quan truyền thông đại chúng ở Trung ương và địa phương tuyên truyền, phản ánh tình hình về giới tính khi sinh.

- Năm 2011 triển khai thử nghiệm hoạt động tư vấn và chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng tại một số tỉnh/ thành phố nhằm cải thiện an sinh xã hội đối với người cao tuổi.

- Triển khai thực hiện Chiến lược Bình đẳng giới đến năm 2020.

4. Tăng cường các hoạt động nghiên cứu, thu thập thông tin về giới tính khi sinh

- Năm 2005 thực hiện nghiên cứu cấp bộ về “Mất cân đối giới tính khi sinh trong 5 năm qua ở một số địa phương- thực trạng và giải pháp”. Từ  năm 2006 trở đi, chỉ tiêu Tỷ số giới tính khi sinh được đưa vào Điều tra biến động dân số ¼ hàng năm.

- Tổ chức một số hội thảo nhằm chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và tầm nhìn về giải quyết mất cân bằng giới tính khi sinh:

Tháng 12 năm 2006, phối hợp với UNFPA Hà Nội tổ chức hội thảo quốc tế “ Chia sẻ kinh nghiệm dự báo và chính sách về giới tính khi sinh” với sự tham gia của các chuyên gia đến từ Trung Quốc, Ấn Độ, các nhà hoạch định chính sách và nghiên cứu nhân khẩu học trong nước.

Tháng 11 năm 2011, phối hợp với UNFPA Hà Nội tổ chức hội thảo “Chia sẻ tầm nhìn giải quyết vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam” với sự tham gia của các chuyên gia đến từ UNFPA.

5. Đề án Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2012-2020

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân tại cuộc họp ngày 30/5/2011 về tình hình mất cân bằng GTKS ở nước ta; và các văn bản số 1594/PB-VPCP ngày 28/9/2011, số 7917/VPCP-KGVX ngày 8/11/2011 về điều chỉnh chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Trên cơ sở các nghiên cứu, kết quả thực tiễn can thiệp giảm thiểu mất cân bằng GTKS trong nước và Quốc tế, Bộ Y tế đã xây dựng dự thảo Đề án kiểm soát mất cân bằng GTKS; lấy ý kiến và tiếp thu góp ý của các Bộ, ngành, đoàn thể, và đã chỉnh sửa, hoàn thiện Đề án. Ngày 09/01/2012 Bộ Y tế đã có tờ trình số 18/TTr-BYT đề nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Kiểm soát mất cân bằng GTKS với các nội dung chính như sau:

5.1.  Mục tiêu của Đề án

a) Mục tiêu tổng quát

Khống chế có hiệu quả tốc độ gia tăng mất cân bằng giới tính khi sinh, tiến tới đưa tỷ số giới tính khi sinh trở lại mức cân bằng tự nhiên góp phần thực hiện thành công Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam, thúc đẩy bình đẳng giới và phát triển bền vững đất nước.

b) Mục tiêu cụ thể

          - Mục tiêu 1: Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về thực trạng, nguyên nhân, hậu quả của mất cân bằng giới tính khi sinh, từng bước thay đổi các hành vi dẫn đến hiện tượng này theo hướng không lựa chọn giới tính thai nhi.

       Các chỉ tiêu chủ yếu

       100% lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp; 100% các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, cán bộ lãnh đạo và nhân viên y tế cung cấp các dịch vụ chẩn đoán giới tính thai nhi và phá thai nắm được thực trạng, nguyên nhân và hậu quả của mất cân bằng giới tính khi sinh, quy định của pháp luật về kiểm soát cân giới tính khi sinh.

       Mức độ mong muốn có con trai của các nhóm đối tượng giảm trung bình 3% mỗi năm.

       100% các cơ sở và nhân viên y tế có cung cấp dịch vụ khám, chẩn đoán, phá thai cam kết không cung cấp dịch vụ chẩn đoán và lựa chọn giới tính thai nhi.

       - Mục tiêu 2: Giảm mạnh tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh, tạo cơ sở thuận lợi để đưa tỷ số này trở lại mức 105-106 chậm nhất vào năm 2025.

Các chỉ tiêu chủ yếu:

Giảm tốc độ tăng tỷ số giới tính khi sinh từ mức 1 điểm phần trăm hiện nay xuống dưới mức 0,4 điểm phần trăm bình quân hàng năm trong giai đoạn đến năm 2020.

Khống chế tỷ số giới tính khi sinh dưới mức 113 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái vào năm 2015 và dưới mức 115/100 vào năm 2020.

Ở 10 tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh cao nhất giảm bình quân ít nhất 0,5 điểm phần trăm vào năm 2015 và 2 điểm phần trăm vào năm 2020.

5.2. Thời gian thực hiện, phạm vi thực hiện và đối tượng của Đề án

a) Thời gian và phạm vi thực hiện Đề án

Đề án được thực hiện từ năm 2012 đến năm 2020, chia ra làm hai giai đoạn:

- Giai đoạn I (2012-2015): Triển khai thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp và các hoạt động can thiệp, đặc biệt triển khai mạnh các giải pháp về truyền thông giáo dục, vận động chuyển đổi hành vi; và nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, trong đó tập trung cao cho 10 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tỷ số này cao nhất. Khẩn trương thiết kế và tiến hành các nghiên cứu toàn diện, thử nghiệm hệ thống các chính sách hỗ trợ, khuyến khích, tạo cơ sở triển khai cho giai đoạn sau.

- Giai đoạn II (2016-2020): Trên cơ sở đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện trong giai đoạn I, các kết quả nghiên cứu, các chính sách đã ban hành, triển khai mạnh và có hiệu quả các hoạt động can thiệp để giảm mạnh tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh, tập trung vào các tỉnh, thành phố có tỷ số giới tính khi sinh cao, ngăn chặn được xu hướng lan rộng tình trạng này, tạo cơ sở vững chắc để đưa tỷ số này giảm mạnh sau năm 2020.

 b) Đối tượng của Đề án

- Đối tượng tác động của Đề án là Lãnh đạo Đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội, xã hội- nghề nghiệp, người hoạch định chính sách, chức sắc tôn giáo, người có uy tín trong cộng đồng, dòng họ; người cung cấp dịch vụ có liên quan đến chẩn đoán và lựa chọn giới tính thai nhi và các tầng lớp nhân dân.

- Đối tượng thụ hưởng của Đề án là các gia đình, cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, vị thành niên và thanh niên, trẻ em.

5.3. Nhiệm vụ và các hoạt động chủ yếu của Đề án

a) Tăng cường, nâng cao hiệu quả truyền thông, giáo dục và vận động nâng cao nhận thức và chuyển đổi hành vi

- Thường xuyên cung cấp thông tin cập nhật về tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, các hoạt động và kết quả can thiệp, ngăn ngừa, hạn chế mất cân bằng giới tính khi sinh của cả nước và từng địa phương cho Lãnh đạo Đảng, chính quyền, tổ chức chính trị, chính trị- xã hội, đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội-nghề nghiệp ở các cấp các ngành, các tổ chức xã hội và tôn giáo thông qua việc tổ chức các hội nghị, hội thảo, sản xuất các bản tin, phóng sự.v.v…

- Huy động các chức sắc tôn giáo, những người có uy tín trong cộng đồng, những người nổi tiếng trong các lĩnh vực tham gia tuyên truyền, cổ súy về bình đẳng giới, giá trị như nhau giữa nam và nữ, giữa con trai và con gái, không lựa chọn giới tính thai nhi.

- Đưa việc thực hiện bình đẳng giới trong công việc họ tộc, chăm sóc ông bà bố mẹ già, không lựa chọn giới tính thai nhi và vấn đề giới tính khi sinh vào hương ước, quy ước, quy định, thỏa ước tập thể của thôn, ấp, bản, làng, tổ dân phố, họ đạo, cơ quan, tổ chức.

- Triển khai mạnh mẽ và đồng bộ các hoạt động truyền thông đại chúng bao gồm cả internet, các mạng xã hội, và truyền thông trực tiếp thông qua mạng lưới tuyên truyền viên, cộng tác viên hiện có với cách tiếp cận và thông điệp phù hợp với từng nhóm đối tượng nhằm nâng cao nhận thức, chuyển đổi thái độ và hành vi của toàn xã hội, đặc biệt là các cặp vợ chồng, những người đứng đầu các dòng họ, những người cung cấp dịch vụ chẩn đoán và lựa chọn giới tính thai nhi về vấn đề giới tính khi sinh hướng đến thực hành các giá trị về bình đẳng giới và không lựa chọn giới tính thai nhi. Những thông điệp chủ chốt bao gồm tình trạng, hậu quả của mất cân bằng giới tính khi sinh đối với gia đình, xã hội, hạnh phúc của các thế hệ tương lai, thực hành bình đẳng giới, các quy định pháp luật nghiêm cấm chẩn đoán và lựa chọn giới tính thai nhi.

- Thiết kế và sản xuất tài liệu truyền thông (pa-nô, áp phích, tờ rơi…) phù hợp, cung cấp đến từng đối tượng theo phương châm tràn ngập thông tin về mất cân bằng giới tính khi sinh. Tổ chức các cuộc thi, đặt hàng sáng tác các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật ở mọi thể loại về đề tài này; lựa chọn các tác phẩm tốt để sản xuất và phổ biến rộng rãi. Tổ chức quảng bá các thông điệp về bình đẳng giới, không lựa chọn giới tính thai nhi trong các sự kiện văn hóa, thể thao thu hút sự quan tâm của đông đảo quần chúng.

- Thực hiện giáo dục về giới, bình đẳng giới trong và ngoài nhà trường với nội dung và hình thức thích hợp với từng cấp học nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng thực hành bình đẳng giới, định hình các giá trị bình đẳng giới cho thế hệ trẻ.

b) Nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi.

- Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ y tế bao gồm cả sinh viên các trường y khoa, thành viên các hội nghề nghiệp có liên quan đến việc thực hiện các hoạt động tư vấn, khám, chẩn đoán và xử lý các thủ thuật về thai sản. Thực hiện việc quán triệt các quy định của pháp luật về nghiêm cấm chẩn đoán và lựa chọn giới tính thai nhi; xây dựng và thực hành các quy định về không thực hiện chẩn đoán, không cung cấp thông tin giới tính thai nhi, không thực hiện kỹ thuật lựa chọn giới tính thai nhi cho mọi đối tượng như một nội dung quan trọng của y đức và quy chế hoạt động trong các đơn vị và nhân viên y tế có liên quan. Thực hiện xử lý nghiêm các đơn vị, cá nhân vi phạm; khen thưởng, biểu dương những đơn vị và cá nhân thực hiện tốt.

- Từng bước hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh. Thực hiện rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về nghiêm cấm tuyên truyền, phổ biến kiến thức và thực hiện các dịch vụ chẩn đoán, lựa chọn giới tính thai nhi theo hướng quy định chi tiết và cụ thể hơn các hành vi vi phạm, tăng khả năng ngăn ngừa và phát hiện vi phạm, tăng mức xử phạt, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan chức năng đối với việc mất cân bằng giới tính khi sinh.

Trước mắt, tập trung thay đổi ngay những quy định pháp luật nhằm khắc phục tình trạng lạm dụng kỹ thuật y học để chẩn đoán và lựa chọn giới tính thai nhi bao gồm:

Sửa đổi, bổ sung Nghị định 114/2006/NĐ-CP ngày 3/10/2006 của Chính phủ về việc xử lý các vi phạm hành chính về dân số, gia đình và trẻ em.

Sửa đổi quy định về phá thai theo hướng thực hiện phá thai có điều kiện nhằm hạn chế phá thai vì lý do lựa chọn giới tính thai nhi.

Ban hành các quy định kiểm soát chặt chẽ các dịch vụ y tế có liên quan đến lựa chọn giới tính thai nhi, bao gồm các dịch vụ lọc tinh trùng, thụ tinh trong ống nghiệm, sàng lọc phôi thai trước khi cấy ghép, siêu âm, xét nghiệm, chẩn đoán, sàng lọc giới tính, chẩn đoán tế bào, siêu âm theo dõi sự phát triển của trứng, bắt mạch kê đơn để lựa chọn giới tính..v.v.

Ban hành các danh mục thuốc, sinh phẩm, hóa chất bị hạn chế hoặc cấm lưu hành, sử dụng vì mục đích lựa chọn giới tính thai nhi.

- Tăng cường hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, thanh tra các vi phạm pháp luật nghiêm cấm tuyên truyền phổ biến thông tin, kiến thức về lựa chọn giới tính thai nhi, chẩn đoán và lựa chọn giới tính thai nhi; xử lý nghiêm các tổ chức cá nhân vi phạm. Huy động tổng hợp các lực lượng kiểm tra, thanh tra; áp dụng công nghệ hiện đại và nghiệp vụ điều tra trong công tác thanh tra, kiểm tra để phát hiện các trường hợp vi phạm. Thực hiện giám sát toàn bộ các cơ sở cung cấp dịch vụ siêu âm và phá thai. Phối hợp chặt chẽ các cơ quan có chức năng điều tra, thanh tra, kiểm tra; phân công giao trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan; thường xuyên tổ chức các đợt kiểm tra, thanh tra định kỳ và đột xuất đối với các cơ sở cung cấp dịch vụ siêu âm, phá thai và các dịch vụ khác có liên quan. Xây dựng mạng lưới thu nhận và xử lý thông tin tố giác, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật về chẩn đoán và lựa chọn giới tính thai nhi.

c) Các chính sách khuyến khích, hỗ trợ

  -Chủ động xây dựng và thực hiện các chính sách hỗ trợ nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ và trẻ em gái, đặc biệt là trẻ em gái trong các gia đình sinh con một bề gái và cha mẹ của các em; sửa đổi, bổ sung và thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội cho người cao tuổi để thúc đẩy nhanh sự chấp nhận các giá trị bình đẳng giới trong đời sống gia đình và xã hội, bao gồm:

Sửa đổi, bổ sung chính sách an sinh xã hội cho người cao tuổi trong khuôn khổ chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện và chính sách bảo trợ người cao tuổi hiện hành theo hướng mọi người cao tuổi đều được hưởng chế độ an sinh xã hội bằng sự đóng góp tự nguyện từ khi còn lao động, sự hỗ trợ của nhà nước trong đó ưu tiên đối với các gia đình có con một bề gái.

Xây dựng và thực hiện tốt các chính sách ưu đãi dành cho trẻ em gái, nữ thanh niên, đặc biệt là trẻ em gái và nữ thanh niên trong các gia đình sinh con một bề gái trong việc đáp ứng nhu cầu học tập, đào tạo nghề, việc làm, cơ hội lập nghiệp và phát triển kinh tế gia đình ( ưu tiên nhập học, miễn giảm các khoản phí, chỗ ở ký túc xá, dạy nghề, giải quyết việc làm, vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh.v.v.) Các chính sách này cần được thử nghiệm một cách khoa học. Những chính sách có tác dụng tốt cần được áp dụng rộng rãi.

d) Nghiên cứu khoa học, đào tạo và quản lý Đề án

- Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm làm sáng rõ tình trạng, nguyên nhân, hậu quả của việc lựa chọn giới tính thai nhi; tổng kết đầy đủ các kinh nghiệm tốt, cung cấp các bằng chứng khách quan làm căn cứ nâng cao hiệu quả công tác truyền thông, giáo dục,vận động, xây dựng và thực hiện các chính sách can thiệp giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh và quản lý, điều hành tốt Đề án. Tập trung vào việc đánh giá hiện trạng, các nguyên nhân văn hóa-xã hội-kinh tế của việc lựa chọn giới tính thai nhi; thử nghiệm và đánh giá tác động, hiệu quả của các chính sách.

- Tăng cường các hoạt động đào tạo, tập huấn, chủ yếu là các khóa đào tạo tập huấn ngắn ngày nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ quản lý, truyền thông giáo dục, cung cấp dịch vụ và thanh tra, kiểm tra. Tập trung vào các hoạt động đào tạo, tập huấn chủ yếu sau:

Đào tạo, tập huấn cán bộ quản lý các cấp về xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện chính sách, giám sát, đánh giá thực hiện kế hoạch.

Đào tạo tập huấn về nội dung, phương pháp, kỹ năng truyền thông, vận động không lựa chọn giới tính thai nhi và tăng cường bình đẳng giới, huy động sự tham gia của các lực lượng xã hội và cộng đồng cho đội ngũ cán bộ truyền thông các cấp, các ngành, đặc biệt là đội ngũ cộng tác viên dân số-KHHGĐ và nhân viên y tế ở cơ sở.

Đào tạo tập huấn về nội dung, yêu cầu, nghiệp vụ kiểm tra, thanh tra thực hiện pháp luật, chính sách kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh cho cán bộ thanh tra, kiểm tra các cấp, các ngành.

Tập huấn bắt buộc về các quy định nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi, quy trình, quy phạm chuyên môn kỹ thuật phải tuân thủ trong lĩnh vực này cho lãnh đạo các đơn vị và nhân viên y tế cung cấp các dịch vụ có liên quan đến lựa chọn giới tính thai nhi và lựa chọn giới tính khi sinh.

Tổ chức các đoàn nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các nước đã thành công trong việc kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh.

-   Củng cố hệ thông tin, số liệu, thực hiện tốt chế độ báo cáo về tình hình lựa chọn giới tính thai nhi và thực hiện đề án ở các cấp. Thực hiện thiết lập phân hệ thông tin về kiểm soát tỷ số giới tính khi sinh trong hệ thống thông tin quản lý chuyên ngành dân số-kế hoạch hóa gia đình để thu thập, xử lý, phân tích thông tin về giới tính khi sinh và các thông tin có liên quan (bà mẹ mang thai, cơ sở cung cấp dịch vụ liên quan đến chẩn đoán và lựa chọn giới tính thai nhi.v.v.) phục vụ yêu cầu cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác cho hoạt động hoạch định chính sách, kế hoạch, quản lý và điều hành Đề án.

-   Định kỳ giám sát, kiểm tra, đánh giá tiến độ và kết quả thực hiện của các cấp, các ngành trên cơ sở xây dựng, ban hành nội dung, phương pháp và các chỉ báo giám sát, kiểm tra, đánh giá; xây dựng và thực hiện chặt chẽ kế hoạch giám sát, kiểm tra, đánh giá ở từng cấp.

Mặc dù có những nỗ lực nhất định, song với thời gian còn ngắn, dường như chưa có dấu hiệu rõ rệt nào cho thấy tình trạng gia tăng TSGTKS ở Việt Nam chững lại. Có thể cần những nỗ lực cao hơn, đồng bộ hơn nữa cho việc giải quyết mất cân bằng GTKS, hạn chế đến mức có thể tình trạng dư thừa nam giới trong tương lai, đem lại lợi ích cho thế hệ sau và vì một xã hội tiến bộ, công bằng, văn minh./.



[1]. Therese Hesketh và Zhu Wei Xing

[2]. TSGTKS theo Tổng điều tra dân số và nhà ở 1979, 1989 và 1999 là 105, 106 và 107

[3]. TSGTKS ở Việt Nam: các bằng chứng mới về thực trạng, xu hướng và khác biệt, Tổng cục Thống kê, 5/2011

[4] .Therese Hesketh và Zhu Wei Xing

[5] Theo Điều tra mức sống 2008, tỷ lệ phụ thuộc của 5 nhóm thu nhập lần lượt là 2,1;1,7;1,5;1,3 và 1,2.

[6] TSGTKS ở Việt Nam- Những bằng chứng …TCTK 5/2011

[7] Therese Hesketh và Zhu Wei Xing. Tài liệu đã dẫn

[8] Thanh Hoá, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Lâm Đồng, Hải Dương, Lạng Sơn, Lào Cai, Tp. Hải Phòng, Tp. Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh

baoin
Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn
Nghệ An tổ chức Hội thi 'Người cao tuổi sống vui, sống khoẻ'

Nghệ An tổ chức Hội thi 'Người cao tuổi sống vui, sống khoẻ'

Dân số và phát triển - 9 giờ trước

GĐXH - Hội thi là hoạt động thiết thực nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm cho cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về người cao tuổi. Đồng thời, khẳng định vai trò, sự cống hiến của người cao tuổi đối với mọi mặt của đời sống...

Ung thư buồng trứng có chữa được không?

Ung thư buồng trứng có chữa được không?

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

Ung thư buồng trứng là căn bệnh thường tiến triển âm thầm và triệu chứng không rõ ràng khiến nhiều người chủ quan, khi đi khám đã ở giai đoạn muộn. Vậy ung thư buồng trứng có chữa được không, làm thế nào để phát hiện sớm?

Có phải trẻ béo phì dễ dậy thì sớm?

Có phải trẻ béo phì dễ dậy thì sớm?

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

Trẻ béo phì có nguy cơ cao dậy thì sớm hơn so với trẻ có cân nặng bình thường. Vậy nguyên nhân tại sao trẻ béo phì lại dễ bị dậy thì sớm và có thể phòng ngừa được không?

Phụ nữ mang thai bị đa ối nên điều chỉnh chế độ ăn như thế nào?

Phụ nữ mang thai bị đa ối nên điều chỉnh chế độ ăn như thế nào?

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

Đa ối là khi lượng nước ối vượt quá mức bình thường ảnh hưởng đến sức khỏe cả mẹ và bé. Mặc dù chế độ ăn không phải là yếu tố quyết định duy nhất nhưng việc điều chỉnh chế độ ăn uống hợp lý có thể hỗ trợ cải thiện tình trạng này.

Giảm nguy cơ sinh non khi bà mẹ được quản lý thai nghén đầy đủ

Giảm nguy cơ sinh non khi bà mẹ được quản lý thai nghén đầy đủ

Dân số và phát triển - 3 ngày trước

Nguy cơ sinh non sẽ được giảm thiểu tối đa nếu thai phụ được khám thai và thực hiện sinh tại cơ sở y tế có đầy đủ phương tiện kỹ thuật cùng đội ngũ y bác sỹ trợ giúp.

Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng

Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

GĐXH - Với phương châm "đưa chính sách đến gần dân," xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng (chăm sức khỏe sinh sản, hỗ trợ người cao tuổi) và phát huy vai trò của đội ngũ cộng tác viên dân số.

Bổ ích hội thi rung chuông vàng tìm hiểu kiến thức về dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản

Bổ ích hội thi rung chuông vàng tìm hiểu kiến thức về dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

GĐXH - Hội thi giúp cho học sinh nâng cao những kỹ năng hoạt động, kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. Đồng thời, tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích để học sinh thể hiện tài năng, trí tuệ, sự sáng tạo.

Gần 150.000 em bé chào đời nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm

Gần 150.000 em bé chào đời nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

Sau 25 năm, Việt Nam có gần 300.000 chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm được thực hiện, 147.000 em bé ra đời khoẻ mạnh. Trong đó, có gần 3.000 trẻ được chào đời tại Bệnh viện Hùng Vương nhờ kỹ thuật IVF.

5 biểu hiện cho thấy bạn đã mắc hội chứng ống cổ tay

5 biểu hiện cho thấy bạn đã mắc hội chứng ống cổ tay

Dân số và phát triển - 5 ngày trước

Hội chứng ống cổ tay là tình trạng phổ biến trong cộng đồng. Hiện số người mắc hội chứng này ngày càng tăng do liên quan đến công việc có sử dụng nhiều tới độ linh hoạt, tỉ mỉ và lặp đi lặp lại của cổ tay.

Bác sĩ khuyến nghị 5 điều quan trọng nên biết về ung thư buồng trứng

Bác sĩ khuyến nghị 5 điều quan trọng nên biết về ung thư buồng trứng

Dân số và phát triển - 6 ngày trước

Phụ nữ thường hiểu nhầm những dấu hiệu ung thư buồng trứng là triệu chứng của các căn bệnh về phụ khoa khác. Việc biết về dấu hiệu ung thư buồng trứng giúp chị em mắc bệnh được điều trị và sớm tăng tỷ lệ sống.

Top