Hà Nội
23°C / 22-25°C

"Cần những nỗ lực cao hơn cho việc giải quyết mất cân bằng giới tính khi sinh"

GiadinhNet – Đó là phát biểu của TS Dương Quốc Trọng, Tổng cục Trưởng Tổng cục Dân số - KHHGĐ tại Hội thảo Quốc gia về mất cân bằng GTKS diễn ra hôm nay, 3/11 tại Hà Nội.

Trong vòng một ngày, Hội thảo đặt ra các vấn đề nóng về thực trạng MCBGTKS. Đồng thời có các tham luận chia sẻ kinh nghiệm, đề xuất những giải pháp cụ thể cho vấn đề này của các chuyên gia trong lĩnh vực dân số, đặc biệt là của các đại diện các tỉnh, thành phố có tỉ số MCBGTKS cao nhất trong cả nước.

MCBGTKS ở Việt Nam diễn ra khá muộn so với nhiều nước khác trên thế giới nhưng lại xảy ra với tốc độ nhanh, diễn biến phức tạp và ngày càng lan rộng, thu hút sự chú ý của các nhà hoạch định chính sách và dư luận xã hội. Việt Nam được chia ra 6 vùng kinh tế - xã hội thì năm 2009 chỉ còn duy nhất vùng các tỉnh Tây Nguyên có TSGTKS ở mức bình thường (105), còn 5/6 vùng còn lại đều đã có tình trạng MCBGTKS. 

Theo Kết quả Tổng điều tra dân số 1/4/2009, có tới 45/63 tỉnh, thành phố có TSGTKS mất cân bằng, tập trung ở các vùng Đồng bằng sông Hồng, Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó những tỉnh, thành phố có TSGTKS cao nhất (từ 120 - 130) đều thuộc khu vực Đồng bằng sông Hồng.

Ngành DS-KHHGĐ đã tích cực tham mưu cho Bộ Y tế để trình Chính phủ những đề xuất can thiệp nhằm giảm thiểu tình trạng MCBGTKS. Ngay từ đầu năm 2012, thực hiện sự chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, lãnh đạo Bộ Y tế đã tiến hành khảo sát và làm việc với 10 tỉnh có tỉ số MCBGTKS cao nhất trong cả nước và tổ chức Hội thảo quốc gia về MCBGTKS ngày hôm nay.

Ngay sau khi nhận được sự chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, Bộ Y tế đã giao Tổng cục DS-KHHGĐ – cơ quan tham mưu về công tác DS-KHHGĐ – tổ chức Hội thảo quan trọng này.

Toàn bộ diễn biến Hội thảo Quốc gia về mất cân bằng giới tính khi sinh được tường thuật trực tiếp trên Giadinh.net.vn từ Trung tâm Hội nghị Quốc tế (số 11A Lê Hồng Phong, Hà Nội).
 
7.30 – 8.00: Ban Tổ chức đón tiếp đại biểu. Ngay từ sáng sớm các bộ phận chức năng của BTC đã có sự chuẩn bị chu đáo về tài liệu, các thiết bị trình chiếu để đón tiếp các đại biểu từ các bộ, ban, ngành, đoàn thể và đại diện 63 tỉnh, thành phố; các nhà báo của các cơ quan thông tấn báo chí Trung ương và Hà Nội đến đưa tin.
 
8.00 – 8.05: Bà Lê Ánh Tuyết - Phó Chánh Văn phòng Tổng cục DS-KHHGĐ tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu.
 
Bà Lê Ánh Tuyết trân trọng giới thiệu đến dự Hội thảo có Ông Nguyễn Thiện Nhân - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ; Ông Lê Bá Trình - Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Ông Nguyễn Viết Tiến - Thứ trưởng Bộ Y tế; Ông Dương Quốc Trọng - Tổng Cục trưởng Tổng Cục DS-KHHGĐ, Bộ Y tế.
 

Phó Thủ tưởng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân chủ trì Hội thảo.
 
Đại diện các tổ chức quốc tế có Bà Mandeep K. O'Brien - Quyền Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam; Ông Guilmoto và bà Kiran Bhatia - Cố vấn kỹ thuật Văn phòng Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương; Ông Christophe Guilmoto - Chuyên gia quốc tế về mất cân bằng giới tính khi sinh của UNFPA.

Tham dự Hội thảo có đại diện lãnh đạo các vụ ban ngành, đoàn thể trung ương; các Phó Chủ tịch UBND 20 tỉnh, thành trực thuộc Trung ương; Đại diện Lãnh đạo Sở Y tế; Đại diện Lãnh đạo Chi cục DS-KHHGD 63 tỉnh thành phố về tham dự Hội thảo.
 
8.05 - 8.15: Thay mặt lãnh đạo Bộ Y tế, Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến phát biểu khai mạc Hội thảo.
 

Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến phát biểu khai mạc Hội thảo.
 
Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến mở đầu bài phát biểu bằng việc nhấn mạnh về tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh đang diễn ra tại Việt Nam. Thứ trưởng nói: “Suốt 2 thập kỷ từ 1979 - 1999, tỷ số GTKS ở Việt Nam chỉ tăng trung bình 0,1 điểm phần trăm/năm (tỷ số GTKS từ 105 năm 1979 lên 107 năm 1999), nhưng từ năm 2006 đến nay, tỷ số này luôn trong xu hướng tăng và tăng mạnh; có năm tăng tới 1 điểm phần trăm – tức là gấp 10 lần so với trước đây và hiện đã cao tới mức nghiêm trọng: 112,3 vào ¼ năm 2012.

Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân: Tình trạng MCBGTKS sẽ không thể giảm nhanh được trong thời gian tới nhưng chúng ta vẫn phải làm. Bên cạnh những nỗ lực của cả hệ thống chính trị, công tác truyền thông vận động cần được đẩy mạnh; từng bước vận động người dân giảm tư tưởng “trọng nam, khinh nữ”; giáo dục con cái có trách nhiệm với cha mẹ không phân biệt con trai, con gái.

Hầu hết các vùng trong cả nước (trừ Tây Nguyên; Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung) đã rơi vào tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh. Đến năm 2011, theo kết quả thống kê chuyên ngành Dân số - KHHGĐ 10 tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh cao nhất đã là 119,7 trở lên. Có tới 18 tỉnh/thành phố có tỷ số giới tính khi sinh 115 trở lên.

Trước thực trạng đó, Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến nêu vấn đề: “Nếu không có sự can thiệp tích cực nhằm giảm tốc độ gia tăng mất cân bằng giới tính khi sinh thì tỷ số GTKS của nước ta có thể tiếp tục tăng lên khoảng 125 vào năm 2020 và tiếp tục duy trì ở mức này cho đến năm 2050. Như vậy, vào năm 2050 mức này tương ứng với việc dư thừa khoảng 12% nam giới tuổi dưới 50”.

Thứ trưởng dẫn ra nhiều hệ quả của việc mất cân bằng giới tính khi sinh như: toàn bộ cơ cấu dân số theo tuổi sẽ bị thay đổi; tình trạng thừa nam, thiếu nữ khi những đứa trẻ được sinh ra bởi lựa chọn giới tính khi bước vào tuổi kết hôn sẽ dẫn đến những hệ lụy khó lường về xã hội, an ninh và trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của cá nhân, gia đình và là tai họa đối với sự phát triển bền vững của đất nước, dân tộc. 

Thêm vào đó, do nước ta nằm trong khu vực có nhiều nước đã xảy ra tình trạng mất cân bằng GTKS từ trước, phải chịu áp lực với làn sóng phụ nữ di cư ra nước ngoài vì lý do hôn nhân, thì hậu quả mất cân bằng giới tính khi sinh như đang diễn ra nếu không được khống chế sẽ nặng nề hơn nhiều so với các nước có tình trạng tương tự.  

Những năm qua, mặc dù Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, tích cực triển khai và phối hợp với các bộ, ngành, đoàn thể triển khai nhiều hoạt động kiểm soát mất cân bằng GTKS. Dẫu đã đạt được nhiều mục tiêu, song mất cân bằng giới tính khi sinh hiện đang là thách thức lớn, khá gay gắt đối với công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình nói riêng và công tác y tế nói chung. Thứ trưởng Nguyễn Viêt Tiến khẳng định.

Làm thế nào để giảm nhanh tốc độ gia tăng mất cân bằng giới tính khi sinh, thực hiện tốt mục tiêu tỷ số giới tính khi sinh dưới mức 113 vào năm 2015 và dưới mức 115 vào năm 2020 như Chiến lược Dân số - Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 đề ra là một nhiệm vụ hết sức khó khăn đòi hỏi sự góp sức, tập trung trí tuệ, sự sáng tạo của các nhà khoa học, những nhà quản lý, những người tham gia công tác xã hội, người trực tiếp tham gia triển khai các hoạt động can thiệp tại cộng đồng và đối với tất cả mọi người quan tâm đến sự phát triển của đất nước và dân tộc Việt Nam.

Và đó chính là lý do mà “Hội thảo Quốc gia về mất cân bằng giới tính khi sinh” được tổ chức.

Sau bài phát biểu của Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến, Hội thảo chính thức khai mạc.

8.15 - 8.25: Bà Mandeep K. O'Brien - Quyền Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam lên phát biểu.
 

Đầu tiên, Bà Mandeep K. O'Brien cảm ơn Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình (GOPFP) và Bộ Y tế (MOH) đã tổ chức hội thảo quốc gia quan trọng này. Bởi theo bà, đây là cơ hội lớn để đối thoại về các thành tựu và kết quả cơ bản của dự án quốc gia trong việc giải quyết vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh (SRB). 

Bà hy vọng, cuộc đối thoại này sẽ giúp xác định những thách thức, cơ hội và đưa ra các khuyến nghị giúp tăng cường các hoạt động can thiệp ở cấp quốc gia và địa phương, đồng thời học hỏi từ các bài học kinh nghiệm từ các quốc gia trong khu vực và quốc tế.

Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến: Nếu không có sự can thiệp tích cực nhằm giảm tốc độ gia tăng mất cân bằng giới tính khi sinh thì tỷ số GTKS của nước ta có thể tiếp tục tăng lên khoảng 115 vào năm 2015 và tiếp tục duy trì ở mức này cho đến năm 2049. Như vậy, vào năm 2049 mức này tương ứng với việc dư thừa khoảng 12% nam giới tuổi dưới 50.

Nói về thực trạng mất cân bằng giới tính trên toàn châu Á, bà cho biết khu vực này đang "thiếu hụt" tới 117 triệu phụ nữ do mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh. Việt Nam không phải là quốc gia đầu tiên đối mặt với vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh nhưng sự thật là thách thức này rất rõ ràng và đang ngày càng tăng lên. Tỷ số giới tính khi sinh đã tăng từ 106.2 bé trai trên 100 bé gái năm 2000 lên 111.9 bé trai trên 100 bé gái năm 2011 và xu hướng rõ rệt này tiếp tục gia tăng. 

Một bằng chứng cụ thể ở châu Á và Việt Nam cho thấy rằng mất cân bằng giới tính khi sinh chủ yếu là do việc lựa chọn giới tính trước khi sinh do những chuẩn mực văn hóa có từ lâu đời về việc ưa thích con trai và đánh giá thấp giá trị trẻ em gái. Những truyền thống gốc rễ này đã tạo ra những áp lực to lớn về việc phải sinh được con trai đối với phụ nữ, và cuối cùng ảnh hưởng tới địa vị kinh tế xã hội cũng như đời sống sinh sản và tình dục của họ cũng như đến sức khỏe và sự sinh tồn của họ.

Trước thực trạng đó, Chính phủ Việt Nam đã có các biện pháp để giải quyết vấn đề này, bà khẳng định. “Vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh đã được đề cập trong Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng giới và Chiến lược quốc gia về Dân số và Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011 - 2020. Sẽ vẫn cần phải làm nhiều hơn nữa để thực hiện hiệu quả các chính sách và chiến lược nhằm giải quyết vấn đề này và bây giờ là lúc cần phải hành động”.

Bà đưa ra 3 giải pháp thực hiện giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh. “Trước hết, chúng ta cần phải thực hiện truyền thông thay đổi hành vi toàn diện để giải quyết sự phân biệt đối xử về giới thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, xã hội dân sự, cán bộ y tế, lãnh đạo cộng đồng và các nhóm đối tượng khác.  

Thứ hai, cần tập trung thúc đẩy hơn nữa vai trò của phụ nữ và trẻ em gái trong xã hội, nâng cao địa vị của họ và nhận thức về quyền của họ.

Thứ ba, điều quan trọng là phải củng cố hệ thống thu thập dữ liệu để đảm bảo độ chính xác trong việc thu thập và báo cáo tỷ số giới tính khi sinh từ cấp làng xã tới cấp trung ương.

Việt Nam đang chuẩn bị cho việc xây dựng chương trình nghị sự về phát triển toàn cầu năm 2015, nên cần phải đảm bảo cam kết hơn bao giờ hết trong việc giải quyết những bất bình đẳng xã hội, nâng cao bình đẳng giới và thúc đẩy quyền sinh sản.

"Cơ quan đại diện của Liên Hợp Quốc ở Việt Nam luôn sẵn sàng tiếp tục chung tay với Chính phủ, các đối tác xã hội dân sự và các tổ chức phát triển khác để nâng cao vị thế của phụ nữ và thiết lập sự cộng tác Nam – Nam và hợp tác ba bên để củng cố nỗ lực giải quyết vấn đề lựa chọn giới tính" - Bà Mandeep K. O'Brien khẳng định.

Năm ngoái, tại hội thảo quốc tế về sự mất cân bằng giới tính khi sinh được tổ chức thành công tại Hà Nội, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra tuyên bố mạnh mẽ để giải quyết vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh với cam kết chính trị, hành động và nguồn lực cao nhất. Bà Mandeep K. O'Brien muốn tái khẳng định cam kết của UNFPA cùng chung tay với các nỗ lực và hỗ trợ hết sức ở cấp quốc gia và địa phương nhằm giúp chấm dứt hiện tượng này.

Bà Mandeep K. O'Brien bày tỏ lời cảm ơn tới Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân vì vai trò lãnh đạo xuyên suốt của Phó Thủ tướng nhằm giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam. Bà mong muốn có một hội thảo hữu ích và sẽ có nhiều khuyến nghị cụ thể để nâng cao kết quả thực hiện.
 
8.45 - 9.10: Được sự phân công của Bộ Y tế, TS Dương Quốc Trọng – Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ trình bày Báo cáo Tổng quan về MCBGTKS ở Việt Nam.

Theo TS Dương Quốc Trọng, TSGTKS ở Việt Nam có một số đặc điểm đáng lưu ý đối với
việc xem xét, tìm kiếm các giải pháp can thiệp làm giảm thiểu mất cân bằng GTKS.

TS Dương Quốc Trọng cho biết: Hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh bắt đầu xảy ra ở một số nước có truyền thống ưa thích con trai thuộc các khu vực Đông Á, Nam Á, Trung Á và Bắc Phi từ những năm cuối của thập kỷ 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX.

Nằm trong vùng ảnh hưởng của truyền thống ưa thích con trai, nạo phá thai được pháp luật cho phép, chương trình kế hoạch hóa gia đình được triển khai rộng khắp trên cả nước, song trong một thời gian dài, tỉ số GTKS ở Việt Nam vẫn ở mức bình thường. Các số liệu của Tổng điều tra dân số 1979, 1989 và 1999 cho thấy TSGTKS có dao động tăng lên, song không đáng kể.

Vào đầu thế kỷ XXI đã có một vài dấu hiệu cho thấy tỉ số GTKS ở Việt Nam bắt đầu biến đổi theo hướng mất cân bằng và càng ngày càng gia tăng nhanh chóng. Số liệu từ các cuộc điều tra biến động DS-KHHGĐ hàng năm do Tổng cục Thống kê tiến hành và Tổng Điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009 cho thấy, ở Việt Nam, MCBGTKS đã bước vào mức cao, tốc độ gia tăng nhanh và ngày càng lan rộng, thu hút sự chú ý của các nhà hoạch định chính sách và dư luận xã hội.

Theo TS Dương Quốc Trọng, TSGTKS ở Việt Nam có một số đặc điểm đáng lưu ý đối với việc xem xét, tìm kiếm các giải pháp can thiệp làm giảm thiểu mất cân bằng GTKS.

Gắn liền với sự ưa thích con trai và lựa chọn giới tính khi sinh, nên cũng tương tự như các nơi khác, TSGTKS ở Việt Nam có tương quan chặt chẽ với số lần sinh, và đặc biệt cao ở những lần sinh sau. Tuy nhiên, sự khác biệt lại khiến sự gia tăng của tỉ số GTKS ở Việt Nam có diễn biến phức tạp hơn các nước khác. 

Nếu TSGTKS ở các nước cao ở những lần sinh sau thì ở Việt Nam tỉ số này cao ngay từ lần sinh đầu tiên, tăng dần và cao nhất ở lần sinh cuối. Ở lần sinh thứ ba trở lên, tỉ số này là 119,7 trẻ trai/100 trẻ gái. Một số cặp vợ chồng đã chủ động tìm kiếm kỹ thuật lựa chọn giới tính trước sinh ngay từ lần sinh đầu tiên. Đối với những gia đình mới chỉ sinh được 2 con gái thì ở lần sinh thứ ba, TSGTKS lên tới 130.

Đặc biệt là trong vòng 5 năm trở lại đây, TSGTKS liên tục gia tăng, chỉ giảm nhẹ một chút vào năm 2011 và đang tiếp tục tăng lên trong năm 2012. Điều đáng lo ngại là sự MCBGTKS này lại đến từ những nơi có đời sống kinh tế phát triển, từ những gia đình khá giả và từ những người có trình độ học vấn cao.

Quan hệ giữa TSGTKS với thu nhập và mức sống cũng có tình hình tương tự. Trong khi TSGTKS của phụ nữ ở nhóm 20% dân số nghèo nhất đều nằm ở mức bình thường (105-106) và nhỉnh hơn chút ít ở lần sinh thứ ba (108) thì ở các nhóm dân số trung bình, giàu và giàu nhất tỉ số này đã ở mức cao ngay từ lần sinh thứ nhất (từ 111 - 112). Đặc biệt ở lần sinh thứ ba trở lên thì ở cả ba nhóm dân số này, TSGTKS rất cao: 116, 121 và 133 lần lượt từ mức thu nhập trung bình, giàu và giàu nhất.

“Rõ ràng là trong một xã hội mà sự ưa thích con trai vẫn còn rất mạnh mẽ thì trình độ học vấn càng cao, điều kiện kinh tế gia đình càng khá giả thì càng giúp cho các cặp vợ chồng có điều kiện tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ can thiệp lựa chọn giới tính khi sinh” – TS Dương Quốc Trọng nhận định.

Mặc dù còn hàng thập kỷ nữa những hậu quả của mất cân bằng GTKS ở Việt Nam mới hiện hữu trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, dựa vào những bằng chứng và kết quả nghiên cứu từ những nơi có TSGTKS cao xảy ra trước có thể dự báo trước được những hậu quả của mất cân bằng TSGTKS đang xảy ra hiện nay ở Việt Nam.

Là một xã hội có thiết chế gia đình là phổ biến, tình trạng dư thừa nam giới trong độ tuổi kết hôn có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng trong thị trường hôn nhân. Một bộ phận nam giới có thể sẽ phải trì hoãn việc kết hôn và nhiều người trong số họ không thể kết hôn. Bên cạnh đó việc gia tăng tuổi kết hôn của phụ nữ (độ tuổi này hiện nay là 22,8) đi liền với những thay đổi về kinh tế - xã hội và các luồng di cư lại càng làm trầm trọng hơn nữa tình trạng này.

Một số hậu quả khác do thừa nam thiếu nữ có thể thấy trước được là việc gia tăng quy mô các hoạt động mãi dâm (là hoạt động không hợp pháp theo Pháp luật Việt Nam), và cả những hành vi không thể chấp nhận được như cưỡng dâm, bắt cóc và buôn bán phụ nữ, buôn bán trẻ em gái.

Nhận thức rõ những hậu quả trong tương lai của việc gia tăng TSGTKS, với mong muốn giảm thiểu mất cân bằng GTKS, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều hoạt động can thiệp tích cực về xây dựng và thực hiện pháp luật, truyền thông thay đổi hành vi, tăng cường nghiên cứu và thu thập thông tin về TSGTKS. 

Đặc biệt, gần đây nhất, tại Quyết định số 2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chiến lược Dân số - Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, đã xác định mục tiêu thực hiện trong giai đoạn (mục tiêu cụ thể 4): Giảm mạnh tốc độ tăng tỷ số GTKS, đặc biệt tập trung vào các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tình trạng mất cân bằng nghiêm trọng về tỷ số GTKS, tiến tới đưa tỷ số này trở lại mức 105-106 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ so sinh gái khoảng năm 2025. Chỉ tiêu là tỷ số GTKS dưới mức 113 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái vào năm 2015 và dưới mức 115/100 vào năm 2020.

TS Trọng cho rằng, mặc dù có những nỗ lực nhất định, song với thời gian còn ngắn, dường như chưa có dấu hiệu rõ rệt nào cho thấy tình trạng gia tăng TSGTKS ở Việt Nam chững lại. Theo ông, “có thể cần những nỗ lực cao hơn, đồng bộ hơn nữa cho việc giải quyết mất cân bằng GTKS, hạn chế đến mức có thể tình trạng dư thừa nam giới trong tương lai, đem lại lợi ích cho thế hệ sau và vì một xã hội tiến bộ, công bằng, văn minh”.

> Đọc toàn văn Báo cáo Tổng quan về MCBGTKS ở Việt Nam TẠI ĐÂY.
 
9.10 - 9.40: Sau phần phát biểu của TS Dương Quốc Trọng, ông Guilmoto và bà Kiran - Chuyên gia của UNFPA báo cáo tổng quan về mất cân bằng GTKS trên thế giới và kinh nghiệm giải quyết mất cân bằng GTKS ở một số nước châu Á.

Ông Guilmoto, chuyên gia của UNFPA.
 
Đầu tiên, ông Guilmoto bày tỏ niềm hân hạnh khi được tham dự Hội thảo Quốc gia về mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam.
 
Ông nói, trong 25 năm gần đây, chúng ta thấy tỉ lệ bé trai đã tăng lên từ những năm 90 trên toàn cầu. Tuy nhiên, sự mất cân bằng giới tính ngày càng diễn ra nghiêm trọng tại các nước Đông Âu, mạnh nhất ở Trung Quốc và Ấn Độ. Đây là những quốc gia phát triển trong những năm 80, và tại đây điều đó đã diễn ra là bởi có sự “hỗ trợ” của công nghệ sàng lọc giới tính.
 
Tại Việt Nam, tỉ lệ mất cân bằng giới tính thai nhi trong 10 năm vừa qua cũng đã tăng lên. Dù là những nước sau cùng nhưng so sánh với các nước láng giềng thì tỉ lệ này cũng đang tăng lên trong khi các quốc gia bên cạnh lại không tăng như: Nhật Bản, Thái Lan, Philippines. Đây là những quốc gia trong khu vực gần gũi với Việt Nam mà tỷ lệ mất cân bằng giới tính lại không cao.
 
Với tư cách một nhà khoa học, tôi cần phải biết rõ nguyên nhân tại sao tỷ lệ này lại cao ở quốc gia này mà không cao ở quốc gia khác. Tất nhiên, có sự khác biệt về chính trị, địa lý giữa các quốc gia này. Tôi xin phép được nhắc lại một cách tâm đắc rằng, đó là do sự yêu thích thích con trai.
 
Trong nhiều gia đình còn có nhiều định kiến phân biệt con trai, con gái. Chúng chỉ tạm bình đẳng khi sống trong gia đình, sự bất bình đẳng tăng lên khi chúng lập gia đình. Thêm vào đó, một nguyên nhân khác là gia đình ngày càng thu hẹp mô hình gia đình hạt nhân. Những yếu tố này kết hợp với nhau, ở nhiều quốc gia khác nhau, trong một thời gian dài khiến tình trạng MCBGTKS ngày một tăng. 

Rõ ràng, truyền thống, công nghệ và nhu cầu làm cho tình trạng MCBGTKS ngày càng tăng. Chúng ta thấy với sự phát triển công nghệ, từ những năm 80, đã tạo điều kiện cho các gia đình biết được giới tính thai nhi trước khi sinh. Thứ hai là quy mô gia đình: Tỷ lệ sinh ngày càng giảm, quy mô gia đình ngày càng nhỏ ở các quốc gia. Gia đình càng nhỏ thì nhu cầu mong muốn có con trai càng mạnh mẽ. “Ngã ba đường” là có nhiều hay ít con? Song đứa con đó nhất định phải có con trai. Và đây là một kẽ hở cho "công nghệ" lựa chọn giới tính thai nhi phát triển.
 
Vậy điều đó gây ra những hệ lụy về mặt nhân khẩu học như thế nào? Con trai sinh ra ngày hôm nay sẽ là một thanh niên nam, đến khi các cháu lớn lên là một lượng lao động thanh niên nam lớn, sẽ là một xã hội “chỉ toàn con trai”. Khi nam nhiều hơn nữ, nam giới sẽ rất khó lấy vợ. Điều này thấy rõ ở Trung Quốc. Khoảng 60% nam giới tìm mọi cách để lấy được vợ. Vậy trong tương lai số lượng nam giới không thể kết hôn sẽ diễn ra.

Một thực tế rõ hơn nữa là nam giới ở các dân tộc thiểu số từ khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa, là những đối tượng khó lấy vợ nhiều nhất. Nhiều tệ nạn xã hội sẽ từ đó xuất hiện: mại dâm, bất bình đẳng giới… tất cả những hệ lụy đó đang được nhìn thấy ở Trung Quốc. Rõ ràng, từ một hiểu biết sai lầm mà chúng ta để lại hậu quả quá lớn. Vậy phải tác động về sự can thiệp như thế nào?
 
Bà Kiran tiếp tục cùng đồng nghiệp của mình đưa ra những mô hình can thiệp.

Đầu tiên, bà Kiran đánh giá cao vai trò của buổi hội thảo. Bà nói, cách đây một năm tôi đã có mặt tại Hà Nội, cũng tại một hội thảo quốc gia về mất cân bằng giới tính khi sinh. Đây là cơ hội tuyệt vời của tôi để thấy được sự thành công và quyết tâm của Việt Nam trong việc giảm thiểu MCBGTKS. 

Bà Kiran cho biết, Hội thảo lần này cơ hội tuyệt vời để bà thấy được sự thành công
và quyết tâm của Việt Nam trong việc giảm thiểu MCBGTKS.

Bà Kiran chia sẻ, năm 2007, chúng tôi đã đưa ra nhiều ấn phẩm, huy động sự tham gia của nhiều tổ chức cùng tham gia với chúng tôi, cùng cất lên tiếng nói. Và dựa vào các nghiên cứu, chúng ta có thể thấy rõ để thành công thì phải làm sao để Chính phủ cùng người dân cùng tham gia trong một chiến lược chung.

Hàn Quốc là một quốc gia duy nhất thành công về mô hình giảm thiểu MCBGTKS. Tại Việt Nam đã có những tiến bộ về xã hội, kinh tế, song điều quan trọng là có sự tham gia của các bộ luật, của nhiều cơ quan bộ ban ngành và điều này được thể hiện thông qua các văn bản pháp luật. Tất cả các biện pháp này được phối hợp để có được sự thay đổi trong quan niệm. Và đây chính là một việc mà Hàn Quốc đã làm và làm thành công.

Song, có chiến lược vẫn chưa đủ, phải kết hợp nhiều giải pháp, trong đó có việc giám sát. Ấn Độ là một quốc gia lớn khi thực hiện các chiến dịch để giúp người dân tránh được quan niệm về trọng nam khinh nữ. Chúng tôi đã đưa ra 3 chiến lược từ 2003, cần vận động thường xuyên và liên tục các đối tượng có liên quan; thu thập số liệu trong 6 nhóm tuổi để xem xu thế và ảnh hưởng của các yếu tố này với nữ. 

Chúng tôi cũng tiến hành các nghiên cứu và thực hiện các chiến lược một cách mạnh mẽ hơn. Ấn Độ cũng thực hiện Luật tăng cường năng lực. Ấn Độ đã thành lập hiệp hội các bác sĩ không cam kết thực hiện lựa chọn giới tính thai nhi, lập mạng lưới xã hội để người dân hiểu hơn về bình đẳng giới, về hệ quả của việc lựa chọn giới tính… 

Chúng tôi cũng tìm mọi cách để thay đổi quan niệm của chính phụ nữ, của người dân. Chúng tôi đã phải đưa ra Luật sửa đổi về chống phân biệt đối xử để đảm bảo công bằng cho phụ nữ. Và nữa, truyền thông đóng vai trò quan trọng. Truyền thông sẽ tác động dần dần và ngấm vào tư tưởng, thay đổi hành vi.
 
Trung Quốc là một quốc gia đông dân và thực hiện nhiều biện pháp để giảm sinh. Nhiều biện pháp quyết liệt để thực hiện triển khai để bảo về nữ giới và nữ quyền, giúp người dân và các cơ quan thực thi pháp luật biết thực hiện các văn bản pháp luật thực thi bình đẳng. Chiến dịch chăm sóc trẻ em gái như các phong trào, chính sách về xã hội… là phần công việc rất lớn và đã có hiệu quả. Tất cả các chiến dịch đều phải có nguồn đầu tư tài chính rất lớn. Trung Quốc là một trong những quốc gia thực hiện truyền thông mạnh, với nhiều bài ca, vở kịch ca ngợi tình yêu con gái…

Bà Kirna cũng nêu lên một số giải pháp: Tôi nghĩ tại Việt Nam, chúng ta đã có nhiều trao đổi, tranh luận để có được nhiều hình thức hoạt động sáng tạo, học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia, đòi hỏi rất nhiều nỗ lực từ cán bộ, ban, ngành để tìm lại sự công bằng giới tính. Quan trọng là phải thực hiện nghiêm về loại bỏ việc lựa chọn giới tính thông qua hướng dẫn rõ ràng và chiến dịch truyền thông cụ thể, nỗ lực giảm nạn phá thai do lựa chọn giới tính mà không gây ảnh hưởng; Hỗ trợ cho trẻ em gái, đề cao vai trò phụ nữ, tuyên truyền vận động… 

Những giải pháp này đều cần phải là nguyên tắc chỉ dẫn trong tất cả các chiến lược. Truyền thông cũng cần tăng cường xóa bỏ tập quán trọng nam khinh nữ để thay đổi quan niệm. Truyền thông cũng cần phải tiếp cận các nhóm dân cư để làm sao thay đổi quan niệm của họ. Bên cạnh đó nhiều biện pháp về bình đẳng giới cũng cần phải được tiến hành để đảm bảo được sự bình đẳng giới, tránh sự đối xử , nếu không phụ nữ sẽ chịu nhiều thiệt thòi… 
 
9.40 - 9.55: Tiếp theo chương trình, TS Dương Quốc Trọng giới thiệu bà Nguyễn Thị Khá - Ủy viên Thường trực Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội báo cáo về thực trạng và giải pháp để giải quyết vấn đề mất cân bằng GTKS ở Việt Nam.
 
Bà Nguyễn Thị Khá - Ủy viên Thường trực Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội
 
Phát biểu tại Hội thảo, bà Nguyễn Thị Khá cảnh báo về những hậu quả mà việc MCBGTKS mang lại, như các nước xung quanh đã gặp phải. Đó là trong tương lai nếu không giải quyết thì Việt Nam cũng sẽ phải “nhập khẩu” nhiều cô dâu; Tình trạng gia tăng tội phạm liên quan đến tình dục, lừa đảo, buôn bán; Ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của các gia đình, mà lớn hơn là gây những hậu quả về bất ổn kinh tế, chính trị.
 
Bà Nguyễn Thị Khá khẳng định, các chính sách hiện vẫn còn chưa đồng bộ, toàn diện, đồng thời thiếu các giải pháp xử lý mạnh mẽ về các trường hợp lựa chọn giới tính thai nhi. Bà cũng nêu ra thực trạng ở một số bộ phận lãnh đạo, người dân và người làm dịch vụ, nhận thức còn hạn chế, chưa đúng, sai lệch về hậu quả của vấn đề này. Nhiều người lợi dụng công nghệ để lựa chọn giới tính thai nhi, loại bỏ thai nhi gái. Nhiều người làm dịch vụ sẵn sàng “lách luật” như việc dùng từ lóng: “thai nhi này giống mẹ”, “mạnh mẽ”, “dịu dàng” để thông báo về giới tính của thai nhi.
 
Từ đó, bà kiến nghị một số giải pháp như việc cần chủ động, kiên trì huy động cả hệ thống chính trị tham gia tích cực. Cần bao gồm giải pháp về chính sách PL XH, an sinh xã hội, đồng thời đẩy mạnh truyền thông. 
 
9.55 - 10.10: Tham luận tại Hội thảo, ông Lê Duy Sớm – Phó Vụ trưởng Vụ Các vấn đề xã hội (Ban Tuyên giáo Trung ương) khẳng định: Để giải quyết được thực trạng MCBGTKS “cần có sự quan tâm, vào cuộc của toàn hệ thống chính trị”. 

Ông Lê Duy Sớm khẳng định: Để giải quyết được thực trạng MCBGTKS
“cần có sự quan tâm, vào cuộc của toàn hệ thống chính trị”.

Ông Lê Duy Sớm nhấn mạnh: Trong nhiều thập kỷ qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, công tác DS-KHHGĐ ở nước ta đã đạt được những kết quả tốt đẹp, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân.

Ông Sớm khẳng định: Đạt được những kết quả đó là nhờ vào sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị các cấp, với sự tham gia tích cực của nhiều người dân, cùng với sự giúp đỡ có hiệu quả của các tổ chức quốc tế, chính phủ các nước, các tổ chức phi chính phủ… Kinh nghiệm thực tế ở nước ta cho thấy, trong điều kiện kinh tế – xã hội như nhau, địa phương nào có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao và hiệu quả của cấp ủy Đảng, thì ở đó công tác DS-KHHGĐ sẽ có những kết quả tốt hơn. 

Chính vì vậy, trước hiện tượng MCBGTKS diễn ra với tốc độ nhanh, ngày càng lan rộng và đã đến mức nghiêm trọng như hiện nay, rất cần sự vào cuộc mạnh mẽ với sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị mới có thể giải quyết được vấn đề này.

Giảm MCBGTKS không thể giải quyết một sớm một chiều mà cần phải có các giải pháp đồng bộ mang tính chiến lược giải quyết lâu dài. “Giải pháp quan trọng nhất vẫn là tăng cường công tác truyền thông, vận động, giáo dục, thuyết phục nhằm chuyển đổi hành vi đối với người dân. Trước hết mỗi cán bộ, đảng viên, các nhà lãnh đạo cộng đồng cần làm gương chấp hành tốt trong gia đình mình, rồi dần thuyết phục, vận động người thân, dòng họ và mọi người dân trong cộng đồng làm theo. Khi mỗi người dân có trách nhiệm tham gia tích cực, chủ động và tự nguyện thực hiện các hoạt động nhằm giảm MCBGTKS mới có thể đảm bảo tính bền vững và sự thành công của bài toán này” – Ông Lê Duy Sớm nói. 
 
> Đọc toàn văn báo cáo tham luận của ông Lê Duy Sớm TẠI ĐÂY.
 
10.25: Các đại biểu dự Hội thảo giải lao. Lãnh đạo Tổng cục DS-KHHGĐ và các chuyên gia quốc tế hiện đang Họp báo tại phòng họp số 318, Trung tâm Hội nghị Quốc tế.
 

Quang cảnh Họp báo

 
10.55: Hội thảo tiếp tục với bài phát biểu của ông Lê Bá Trình - Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - về kết quả và kinh nghiệm bước đầu thực hiện mô hình huy động đồng bào phật tử, đồng bào giáo dân tham gia khắc phục tình trạng MCBGTKS

Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp với Tổng cục DS-KHHGĐ, Bộ Y tế và Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc xây dựng mô hình “Gia đình Phật tử tham gia khắc phục tình trạng MCBGTKS” tại tỉnh Hưng Yên và “Gia đình tín đồ Công giáo tham gia khắc phục tình trạng MCBGTKS” tại tỉnh Thái Bình. Mô hình được triển khai từ quý 1 năm 2009.  

Ông Lê Bá Trình đang phát biểu tại Hội thảo

Sau 2 năm triển khai, mô hình đã đạt được những kết quả nhất định. Bước đầu người dân có sự chuyển biến về quan niệm sinh con trai, con gái. Tại Hưng Yên chỉ có 28,3% (số người trả lời từ tuổi 18 - 49) và 8,5% (trên 50 tuổi) cho rằng nhất thiết phải sinh con trai. Tại Thái Bình, con số này lần lượt là 8,3% và 6,7%. Kết quả khảo sát bảng hỏi cho thấy mức độ cam kết của người dân khi tham gia mô hình được thực hiện ở mức độ tốt và rất tốt chiếm tỷ lệ cao.

Năm 2012, mô hình được nhân rộng ra thêm 3 tỉnh khác: Hải Dương, Nam Định và Thừa Thiên Huế.
 
11.10: Ông Bùi Đức Long - Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Nam Định báo cáo thực trạng và tham luận các giải pháp giải quyết MCBGTKS tại tỉnh Nam Định. 

Ông Bùi Đức Long - Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Nam Định

Tỷ số giới tính khi sinh của tỉnh Nam Định luôn cao hơn rất nhiều so với mức trung bình cả nước; năm 2011 tập trung ở 8 huyện, riêng Thành phố và huyện Vụ Bản có thấp hơn nhưng luôn vượt qua mức cho phép 106/100; (Nam Định là 1 trong 10 tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh cao nhất cả nước).

Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh thất thường qua các năm và xảy ra ở khắp các huyện trên địa bàn tỉnh kể cả nơi có đông đồng bào giáo dân (Nghĩa Hưng, Xuân Trường, Giao Thủy), ở cả những vùng ven biển (Hải Hậu, Giao Thủy, Nghĩa Hưng), vùng đồng chiêm trũng (Ý Yên).

Nam Định là một tỉnh đặc trưng của vùng đồng bằng sông Hồng, tư tưởng Nho giáo phương Đông đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân đặc biệt là người dân đang sinh sống tại vùng nông thôn. Theo ông Long, nguyên nhân, có nhiều như sự ưa thích con trai, đặc biệt là những quan niệm “trọng nam khinh nữ”, có con trai để “nối dõi tông đường”, “có người thờ cúng tổ tiên”... vẫn còn ngự trị trong tư tưởng một số đông người dân.

Trước thực trạng đó, nhờ sự quyết liệt trong việc thực hiện triển khai đề án Can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh, mà sự nhận thức rõ rệt về thực trạng, nguyên nhân, hậu quả về mất cân bằng giới tính khi sinh của các cấp ủy đảng, chính quyền và người dân tại đây được nâng lên.
 
Bà Trần Thanh Bình - Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - đã tham luận về giải quyết tình trạng MCNGTKS dưới góc độ thực hiện bình đẳng giới.  

Bà Trần Thanh Bình – Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 
 
Bà Bình khẳng định, biện pháp vận động, giáo dục nâng cao nhận thức vẫn là biện pháp quan trọng. Theo đó, cần sửa đổi khuôn mẫu văn hoá, tập quán, hành vi của nam giới và nữ giới nhằm loại trừ các thành kiến và những phong tục tập quán dựa trên tư tưởng giới này hơn, giới kia là kém hoặc dựa trên những kiểu mẫu rập khuôn về vai trò của nam giới và phụ nữ.
 
Bên cạnh đó cần giáo dục gia đình về chức năng làm cha mẹ, trách nhiệm chung của cha mẹ vì lợi ích con cái (dù gái hay trai); không phân biệt đối xử với con gái/trai; truyền thông cho mọi đối tượng, trong đó tập trung vào những cặp vợ chồng trẻ, vợ chồng đã có 2 con một bề là con gái, lưu ý cả những gia đình khá giả có con gái 1 bề.
 
11.40: Phát biểu tại Hội thảo, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân chào mừng sự có mặt của các đại biểu, của những người làm công tác dân số. Phó Thủ tướng gửi lời cảm ơn tới sự quan tâm và giúp sức của Tổ chức Dân số Thế giới (UNFPA) trong nỗ lực giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam.
 
Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân phát biểu tại Hội thảo
 
Phó Thủ tướng cho rằng tình trạng mất cân bằng GTKS ở nước ta đang trở thành vấn đề nóng và hội thảo hôm nay là rất quan trọng và cần thiết. 
 
Phó Thủ tướng cũng đồng ý với các nguyên nhân nêu lên trong hội thảo và khẳng định việc giảm thiểu mất cân bằng GTKS là một quá trình phải được thực thi bằng nhiều biện pháp đồng bộ.
 
Sau khi nghe các báo cáo về thực trạng của vấn đề MCBGTKS và các tham luận của các bộ, ngành, đoàn thể Trung ương, các tỉnh có tỉ số GTKS cao, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh: Sự gia tăng của GTKS trong những năm qua, đặc biệt là 3 năm trở lại đây rất đáng lo ngại. Động cơ phải có con trai đã tồn tại trong tâm lý của người châu Á nói chung và người Việt Nam nói riêng hàng nghìn năm nay. Tuy nhiên, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và cơ hội tiếp cận nó ngày càng dễ dàng và thuận lợi của người dân; việc thực thi luật pháp trong việc lựa chọn giới tính thai nhi chưa nghiêm,… đã khiến TSGTKS ngày càng tăng.

Phó Thủ tướng cho rằng, để giảm được tình trạng MCBGTKS sẽ không thể giảm được nhanh trong thời gian tới nhưng chúng ta vẫn phải làm. Bên cạnh những nỗ lực của cả hệ thống chính trị, công tác truyền thông vận động cần được đẩy mạnh; từng bước vận động người dân giảm tư tưởng “trọng nam, khinh nữ”; giáo dục con cái có trách nhiệm với cha mẹ không phân biệt con trai, con gái. 
 
Về quan niệm, nhu cầu phải có con trai để dưỡng già, Phó Thủ tướng chia sẻ ngay trong gia đình mình để nói lên: “Bố mẹ giàkhông nhất thiết phải ở với con trai, không có con trai thì ở với con đẻ, là con gái cũng đâu có sao. Như vậy là cần thiết phải thay đổi mô hình gia đình".
 
Phó Thủ tướng gợi ý, vấn đề kế thừa tài sản sau khi cưới cũng nên có thành chuyên đề. Đây là vấn đề về văn hóa, nhưng rõ ràng cần thiết phải có sự phân biệt để phụ nữ có quyền hơn trong các vấn đề về gia đình, trong đó có việc sở hữu tài sản.
 
Phó Thủ tướng cũng cho rằng một trong số các giải pháp cần đưa ra là tăng cường lực lượng cộng tác viên cơ sở, ngoài việc tăng quy mô, cần thiết phải duy trì và tập trung vào chất lượng. Bên cạnh đó, ngành Y tế cần bàn với ngành Giáo dục để đưa vấn đề giới tính vào các chương trình chính thức để ngay từ khi còn ngồi ghế nhà trường, các em sẽ có những nhìn nhận đúng đắn hơn về giới và bình đẳng giới. Làm thế nào để các em có những nhận thức đúng là việc cốt lõi. Đặc biệt, cần thiết phải có sự tham gia của các đoàn thể, đặc biệt đoàn thanh niên. Phải có nhận thức đúng để tự tạo hạnh phúc cho mình. Về thay đổi tập quán, Phó Thủ tướng đề nghị cần có sự kết hợp giữa các địa phương, học hỏi những mô hình thành công.
 
Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Y tế tiếp thu các ý kiến đóng góp của các bộ, ngành, đoàn thể để có kế hoạch và giải pháp cho vấn đề giảm thiểu MCBGTKS trong năm 2013 và những năm tới. 
 
Kết thúc bài phát biểu, Phó Thủ tướng chúc hội thảo thành công, đưa ra được nhiều giải pháp để thực hiện được các chỉ số can thiệp về MCBGTKS.
 
Đúng 13h30, Hội thảo tiếp tục với việc chia 3 nhóm thảo luận với 3 nội dung:

Nhóm 1: Chủ đề tuyên truyền vận động.

Nhóm 2: Chủ đề Nâng cao hiệu lực hiệu quả thực thi pháp luật.

Nhóm 3: Chủ đề Hỗ trợ trẻ em gái, gia đình sinh con một bề là gái.

Nhóm 1 gồm các chuyên gia quốc tế và trong nước với hơn 60 đại biểu và thảo luận về chủ đề Tuyên truyền vận động. Nhóm 1 có sự tham dự của TS Dương Quốc Trọng, Tổng Cục trưởng Tổng Cục DS-KHHGĐ, Bộ Y tế.
 

Nhóm 1 bắt đầu thảo luận
 
Thành phần nhóm 1 gồm có: Trưởng nhóm: Ông Trần Trung Kiên - Phó Giám đốc Sở Y tế tỉnh Nam Định; Chuyên gia hỗ trợ gồm Bà Trần Thị Vân – UNFPA Hà Nội, Bà Phan Thị Thu Hiền – UNFPA Hà Nội (chuyên gia quốc tế) và Ông Phạm Năng An - Tổng cục DS-KHHGĐ.
 
Trưởng nhóm đề nghị các đại biểu tập trung thảo luận vào các vấn đề cơ bản như: Cơ hội và thách thức trong việc thực hiện hoạt động truyền thông chuyển đổi hành vi về vấn đề MCBGTKS, những gì làm tốt và những gì làm chưa tốt, tìm ra nguyên nhân. Các đại biểu sẽ đưa ra các giải pháp để giải quyết những thách thức một cách hiệu quả và phù hợp nhất đối với từng địa phương.
 
Mở đầu chương trình thảo luận, bà Hương – Điều phối viên của UNFPA với Hội Nông dân cho rằng: Nên lồng ghép chương trình truyền thông giảm MCBGTKS với hoạt động của Hội Nông dân và Hội LHPN để giảm được chi phí mà vẫn hiệu quả.
 
TS Dương Quốc Trọng, Tổng cục Trưởng Tổng cục Dân số - KHHGĐ: Cần những nỗ lực cao hơn, đồng bộ hơn nữa cho việc giải quyết mất cân bằng GTKS, hạn chế đến mức có thể tình trạng dư thừa nam giới trong tương lai, đem lại lợi ích cho thế hệ sau và vì một xã hội tiến bộ, công bằng, văn minh”.
Còn bà Châu Tuyết Ngọc, Phó Giám đốc Sở Y tế, Chi cục trưởng Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Bạc Liêu cho hay cần tập trung tuyên truyền nhận thức cho phụ nữ và các bậc phụ huynh lớn tuổi. Hiện nay, nhiều phụ nữ vẫn chiều theo ý thích của chồng để tìm mọi cách sinh con trai. Nếu ai sinh con gái đầu lòng thì thấy rất “hoang mang” và tìm cách sinh được con trai. Nhiều người lớn tuổi muốn con mình lấy vợ phải sinh được con trai.
 
Trong không khí thảo luận sôi nổi, bà Tô Thị Hoa - Phó GĐ Sở Y tế, Chi cục trưởng Chi cục DS-KHHGĐ Tp. HCM đề nghị cần dán các quy định của pháp luật về cấm siêu âm, chẩn đoán giới tính thai nhi tại các phòng khám, siêu âm sản phụ khoa. Điều đó sẽ có tác dụng nhắc nhở những người làm dịch vụ và cũng để các sản phụ khi đi khám thai cũng ý thức được và không đề nghị biết về giới tính thai nhi. 
 
Để giải pháp có tính lâu dài, bà Hoa cũng cho rằng nên đưa việc giáo dục về MCBGTKS vào trường học ngay từ cấp tiểu học, để các công dân tương lai có nhận thức và ý thức ngay từ khi còn nhỏ. Cần có chính sách về an sinh xã hội cho các gia đình có con một bề là gái. Đối với người cao tuổi không có người nương tựa hoặc chỉ có con một bề là gái cần được hỗ trợ nhiều hơn. Cần có thanh tra chuyên ngành của ngành DS-KHHGĐ để chủ động trong việc kiểm tra, giám sát các hành vi vi phạm chính sách DS-KHHGĐ.
 
Ông Lê Văn Nhượng, Phó Chánh văn phòng Sở Y tế tỉnh Vĩnh Phúc cho biết, hiện Vĩnh Phúc chưa có dấu hiệu giảm tỉ lệ GTKS. Ông chia sẻ, Chi cục DS đã tham mưu Sở Y tế tổ chức hội thảo cung cấp thông tin về tình hình MCBGTKS cho lãnh đạo các cấp trong tỉnh, hệ thống y tế tuyến tỉnh, huyện để cùng chỉ đạo thực hiện. Ông Nhượng cũng cho rằng nên tăng cường truyền thông trực tiếp, nhắm đến đối tượng ở cơ sở.
 
Bà Hàn Thị Hồng Thúy - Phó Giám đốc Sở Y tế Bắc Giang cho biết, tỉnh Bắc Giang đã có Chỉ thị về thực hiện ngăn ngừa giảm thiểu MCBGTKS với sự vào cuộc thực hiện nghiêm túc của cả hệ thống chính trị. Ngành Y tế đã thực hiện ký cam kết với các cơ sở y tế trên địa bàn. Các bản cam kết không hướng dẫn, chẩn đoán giới tính thai nhi được treo tại các cơ sở y tế. Bà Thúy cho biết, những cơ sở nào vi phạm sẽ bị rút giấy phép hành nghề.
 
Tham gia thảo luận nhóm, một đại biểu đến từ Hội LHPN Việt Nam, bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, Trưởng Ban Gia đình Xã hội TW Hội LHPNVN cho biết Hội LHPN đã phối hợp tuyên truyền về MCBGTKS với Hội Nông dân thông qua nhiệm vụ chính trị của cả 2 Hội. Hai Hội đã đề ra chỉ tiêu trong Dự án “5 triệu phụ nữ nuôi dạy con tốt” là sau 5 năm 5 triệu bà mẹ sẽ có kiến thức cơ bản về nuôi dạy con, về DS-KHHGĐ, về mất cân bằng GTKS. Đồng thời sẽ 2 triệu ông bố nông dân cũng phải có kiến thức về DS-KHHGĐ.
 
Bà Vũ Ngọc Thủy, Vụ Bình đẳng giới của Bộ LĐTBXH cho rằng cần hướng dẫn để người dân hiểu việc lựa chọn giới tính thai nhi là hành vi vi phạm pháp luật. Chúng ta đều nhận thấy vấn đề bất bình đẳng giới gắn liền với sự MCBGTGTKS, chúng tôi sẽ kết hợp với Tổng cục DS-KHHGĐ để cùng ngăn ngừa giảm thiểu tình trạng này.
 
Song song với nhóm 1, các nhóm 2, 3 cũng đang sôi nổi thảo luận.
 
 
Nhóm 2 tập trung thảo luận về chủ đề Nâng cao hiệu lực hiệu quả của việc thực thi pháp luật.
 
Thành phần nhóm 2 gồm trưởng nhóm là ông Phạm Quang Ngọc, Phó Giám đốc Sở Y tế TP Hải Phòng; Các chuyên gia hỗ trợ gồm ông Guilmoto - chuyên gia của UNFPA, ông Nguyễn Xuân Hồng và ông Phạm Nguyên Bằng - UNFPA Hà Nội (các chuyên gia quốc tế) và ông Đinh Huy Dương - Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ, Tổng cục DS-KHHGD.
 
Thay mặt nhóm 2 ông Phạm Quang Ngọc cho biết, Đảng và Chính phủ rất quan tâm về MCBGTKS. Việt Nam cũng có những yếu tố thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực hiệu quả của việc thực thi pháp luật như có Luật Bình đẳng giới, Pháp lệnh Dân số và một số văn bản hướng dẫn thực hiện. Cùng đó, sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc các cấp cùng các ban, ngành, đoàn thể khác và hệ thống số liệu từ tuyến cơ sở là điều kiện thuận lợi cho việc triển khai giảm thiểu MCBGTKS. Tuy nhiên, việc thực thi pháp luật của Việt Nam để ngăn chặn hành vi lựa chọn giới tính thai nhi còn gặp nhiều khó khăn. Có nhiều nơi, việc thực hiện chưa nghiêm, thậm chí không thực hiện theo các văn bản đã ban hành. Hành vi vi phạm ngày càng tinh vi nên việc phát hiện và xử lý rất khó khăn. Thanh tra Sở Y tế lại không được phép sử dụng các phương tiện như máy ghi âm, ghi hình để thu thập chứng cứ. 
 
Trong quá trình thực hiện, chưa có sự phối hợp tốt trong thanh tra y tế, chưa có sự phối hợp được giữa Sở Y tế và Sở Thông tin và Truyền thông trong việc kiểm tra các cơ sở sản xuất các văn hóa phẩm trên địa bàn các tỉnh, tuyên truyền pháp luật còn yếu, nhận thức của người dân còn hạn chế hoặc cố tình không thực hiện.
 
Tuyên truyền pháp luật còn yếu, nhận thức của người dân còn hạn chế hoặc cố tình không thực hiện. Trong các thách thức tồn tại, các đại biểu cũng nhấn mạnh: Hệ thống, bộ máy công tác dân số chưa được củng cố đủ mạnh, kinh phí thực hiện; định mức chi tiêu tài chính không phù hợp nên việc triển khai còn hạn chế.

Trước những khó khăn, thách thức nêu trên, các đại biểu thống nhất cần có sự vào cuộc và phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể trong việc triển khai thực hiện; Phối hợp với thanh tra y tế để kiểm tra các cơ sở ý tế trong việc sử dụng máy siêu âm có lựa chọn giới tính trước sinh; Thực hiện nghiêm các quy định và quy trình nạo phá thai, rút giấy phép hành nghề với cơ sở y tế có vi phạm; Nghiêm cấm việc cung cấp thông tin về các biện pháp lựa chọn giới tính khi sinh trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là các báo mạng; Phối hợp với sở thông tin truyền thông quản lý tốt các cơ sở sản xuât tuyền thông.
 
Một số giải pháp để việc triển khai thực thi hiệu lực hiệu quả pháp luật được các đại biểu đề xuất cần có quy định rõ trách nhiệm cụ thể và phối hợp của các Bộ ngành, trong triển khai thực hiện; Lồng ghép việc kiểm tra giám sát hành vi lựa chọn GTKS vào nội dung, nhiệm vụ của ngành Tư pháp. Đồng thời đưa tiêu chí không lựa chọn GTKS vào tiêu chuẩn xét duyệt gia đình văn hóa; Tăng cường công tác truyền thông theo nhiều hình thức, phù hợp với tín ngưỡng tôn giáo, dân tộc.
Vấn đề được các đại biểu nhất trí cao đề nghị là củng cố ổn định bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ, có chính sách ưu đãi hỗ trợ cán bô chuyên trách và cộng tác viên dân số; Tăng cường nguồn lực (nhân lực, kinh phí) đầu tư, kiện toàn công tác dân số bao gồm MCBGTKS; Lồng ghép đưa vấn đề MCBGTKS vào kế hoạch của tỉnh.
 
Nhóm 3 tập trung thảo luận về chủ đề Hỗ trợ trẻ em gái, gia đình sinh con một bề gái.
 
Thành phần nhóm gồm trưởng nhóm là ông Nguyễn Tấn Đức, Phó Giám đốc Sở Y tế tỉnh Quảng Ngãi; Chuyên gia hỗ trợ gồm bà Kiran - Văn phòng UNFPA khu vực, bà Hà Thị Quỳnh Anh - UNFPA Hà Nội (các chuyên gia quốc tế) và bà Nguyễn Thị Ngọc Lan - Phó Vụ trưởng Vụ Dân số-KHHGĐ, Tổng cục DS-KHHGĐ.

Dưới sự chủ trì của ông Nguyễn Tứ Đức, Phó GĐ Sở Y tế Quảng Ngãi, hơn 70 đại biểu đến từ các Chi cục Dân số - KHHGĐ đã cùng thảo luận sôi nổi về chủ đề được đặt ra: Làm thế nào để hỗ trợ trẻ em gái, biện pháp nào hỗ trợ gia đình sinh con một bề.

Trước vấn đề mang tính chủ đạo, các đại biểu thuộc nhóm 3 đã cùng nhìn ra các thách thức mà trẻ em gái đang phải đối diện như sau: Tư tưởng muốn có con trai, tư tưởng “trọng nam hơn nữ” rất lớn trong xã hội cản trở các cơ hội của trẻ em gái, chưa có nhiều cơ sở tạo việc làm cho nữ, dẫn đến cơ hội tiếp cận các dịch vụ và việc làm của phụ nữ thấp…
 
Tuy nhiên, các đại biểu đã cùng nhau thảo luận để nhận thấy rõ, việc thực hiện những hỗ trợ cho trẻ em gái và các gia đình sinh con gái một bề cũng đang có được những thuận lợi trong bối cảnh hiện nay như: Luật Bình đẳng giới đã và đang được thực thi, bước đầu có những tác động nhất định đến cộng đồng; Có nhiều văn bản quy phạm pháp luật như luật chống bạo hành, sự thay đổi về cơ cấu dân số… tất cả đã tạo sự quan tâm chăm sóc tốt hơn với trẻ em gái trong mỗi gia đình. Bên cạnh đó, mô hình chăm sóc người cao tuổi đang trong lộ trình thực hiện, mô hình bảo hiểm y tế toàn dân đang trong tiến trình triển khai cũng tạo cơ hội cho trẻ em gái nói riêng và phụ nữ nói chung.

Trước các cơ hội, thách thức đó, các đại biểu tham dự buổi thảo luận đã cùng nhau đưa ra các giải pháp kiến nghị như: Trong mô hình gia đình văn hóa nên bổ sung thêm mô hình những người cha có con gái thành đạt, những người em có chị gái học giỏi… Bởi hiệu ứng về nam giới làm công tác xóa bỏ bất bình đẳng có hiệu quả mạnh hơn.

Về việc cấp học bổng, cần phải cân nhắc về mặt kinh phí. Trong khi chính phủ đang phải cắt giảm nhiều chi phí thì các chương trình cần thiết phải tập trung trọng điểm. Ví như Hải Dương đang là vùng bị MCBGTKS, nên làm trọng tâm tại đây với nhiều chế độ ưu tiên cho phụ nữ và trẻ em gái của tỉnh này. Cần đi vào những giải pháp cụ thể hơn, phù hợp với từng vùng miền chứ không thể nào có giải pháp chung áp dụng trong cả nước.

Các giải pháp khác được các địa biểu kiến nghị như:  Cần tổ chức biểu dương và tôn vinh trẻ em gái; Cần phối hợp nhiều bộ ban ngành, có những quỹ giành riêng cho trẻ em gái; Hỗ trợ trẻ em gái và người già cô đơn không nơi nương tựa; Hỗ trợ gia đình khi sinh trẻ em gái không phải đóng học phí; Ưu tiên cho phụ nữ khi tham gia xét tuyển; Hỗ trợ cấp học bổng cho trẻ em gái học khá và giỏi trong các gia đình sinh con một bề; Những người cao tuổi ở gia đình sinh một bề cần được có nhiều ưu đãi; Cần được trợ cấp xã hội sớm hơn 10 tuổi; Cấp thẻ bảo hiểm y tế nhằm khuyến khích các gia đình sinh con gái một bề, để sao cho họ không sinh con thứ ba; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, đặc biệt đối tượng là nữ giới. Phải huy động mọi lực lượng, các hệ thống chính trị cùng tham gia, không bất cứ ngành nào…

Trước sự thảo luận sôi nổi của các đại biểu của nhóm 3, đóng góp tại buổi thảo luận nhóm bà Kiran cho biết:

Tôi biết đây là chủ đề thảo luận rất khó. Tuy nhiên đã có rất nhiều các ý kiến được đưa ra. Trong phần thách thức, các đại biểu đưa ra ý kiến về sự hỗ trợ đặc biệt giành cho trẻ em gái, đó cũng là cách thức mà các nước khác đang thực hiện. Rất nhiều kiến nghị tập trung về hỗ trợ về kinh tế, để làm việc này thì phải cần sự hỗ trợ lớn từ chính phủ. Song cái quan trọng hơn cả là làm thế nào để thay đổi thái độ, dẫn đến thay đổi hành vi của chúng ta.
 
Vì vậy, theo kinh nghiệm từ các nước khác đang làm, việc quan trọng là thay đổi thái độ trẻ em trai nói riêng, đàn ông nói chung, để họ bình đẳng hơn về thái độ với trẻ em gái. Ở đất nước chúng tôi, có tục lệ, khi con gái lấy chồng nhà gái phải bỏ ra rất nhiều tiền được coi là của hồi môn, điều này khiến các gia đình nghèo càng khó khăn hơn, cơ hội lấy chồng của phụ nữ cũng khó khăn hơn, đồng nghĩa với việc đàn ông cũng không dễ lấy được vợ. Và chúng tôi đã làm cuộc vận động với đàn ông, rằng: Các anh đã lấy được vợ rồi sao còn đòi thêm tiền?. Từ đó đã có kết quả khả quan. Ngoài ra chúng tôi cũng tập trung vào giáo dục cho trẻ em trai trong nhà trường, để các em thấy vai trò bình đẳng như nhau giữa trẻ em trai và trẻ em gái.

Ở một số nước khác đã nghiên cứu về chi phí. Kết quả cho thấy, nếu không được bình đẳng thì trẻ em gái và phụ nữ nói chung sẽ không có việc làm, và khó khăn đội lên không chỉ người phụ nữ mà cả đàn ông cùng phải chia sẻ. Và như thế chính phủ lại phải bỏ ra chi phí cho chính việc bất bình đẳng này mang lại. Vì thế, khi bất bình đẳng kéo dài thì gánh nặng chi phí không chỉ là ở phụ nữ mà ở cả nam giới.

Cuối cùng tôi muốn chia sẻ, việc ta phải làm là làm việc với cộng đồng, đặc biệt với lãnh đạo tại địa phương, tại nơi cư trú. Họ sẽ là những người báo cáo lại điều đó khi có một hiện tượng đối xử không bình đẳng đối với trẻ em gái trong cộng đồng đó. Lấy một ví dụ, tại Ấn Độ, để kiểm tra giám sát việc sử dụng công nghệ là rất khó. Vì thế, chúng tôi đã tập huấn cho Y tá về việc biết công nghệ phát hiện giới tính thai nhi, báo lại và người phát ngôn về giới tính thai nhi sẽ bị phạt. Cách thức này đã phát huy hiệu quả. Điều đó cho thấy việc huy động sức mạnh từ cộng đồng là rất quan trọng. 
 
15h30: Sau khi 3 nhóm thảo luận xong, ông Guilmoto đến từ UNFPA lên trình bày về khung can thiệp để giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh. Ông Guilmoto nói, khoảng 30-40 năm nữa tại Việt Nam sẽ đưa được tỉ số giới tính khi sinh trở lại cân bằng. Song liệu chúng ta có chờ đợi hay không? Chúng ta cần can thiệp để thúc đẩy quá trình đó, làm nhanh hơn quá trình này. Đối với giới trẻ, thế hệ trong tương lai, nghĩa là xóa bỏ mất cân bằng GTKS, trong khoảng 20-30 năm nữa thôi.
 
Cho phép tôi nhắc các bạn về một ví dụ đã từng xảy ra ở các nước khác như Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ có những phong trào vận động rất mạnh mẽ với những vị chức sắc, tôn giáo, người dân. Hàn Quốc từng ứng dụng từ rất sớm quy định với các bác sĩ hành nghề vi phạm. Ấn Độ cũng như vậy, họ cố gắng cấm bác sĩ tiết lộ giới tính thai nhi từ cách đây 15 năm. Song các bác sĩ rất có thể tiết lộ thông tin cho khách hàng của mình theo các cách thức khác nhau. Việc chúng ta phát hiện được chẳng qua nhờ ghi âm, ghi hình được.

Một quan niệm nữa mà chúng ta có thể thấy ở đây là hỗ trợ các gia đình, đối với chính sách cần phải xác định rõ mục tiêu, chính sách của mình. Điều này giải thích vì sao các chính sách được giải quyết tốt ở Ấn Độ.

Tại Trung Quốc, rất nhiều giải pháp được đưa ra, tất cả các phương cách tác động gần như đều làm sao để mọi cơ quan cùng tham gia. Thế nhưng thực tế hiện nay cho thấy, kết quả không nhiều.

Cách thức hiện nay là làm sao để thay đổi giá trị trong gia đình. Quy mô gia đình nhỏ, tỉ lệ sinh thấp, vì vậy phần lớn người dân sẽ phải tuân theo quy định với cuộc sống chỉ có hai con.

Việc cấm đoán phát triển công nghệ là rất khó cấm đoán tại châu Á. Việt Nam cũng vậy. Vậy Việt Nam có thể làm gì? Tôi nghĩ dẫu tình trạng mất cân bằng GTKS mới chỉ xuất hiện gần đây nhưng chúng ta phải có cách thức giải quyết.

Thứ nhất, luật cấm nhưng nếu chúng ta thắt chặt các quy định thì có thể dẫn tới những hành động không mong muốn như nạo thai. Tôi nhận thấy khi tỉ lệ sinh đã giảm rồi thì rất khó để tăng trở lại. Bởi thế chúng ta phải giải quyết tận gốc rễ từ việc yêu thích con trai, có con trai như một giá trị được chấp nhận và đề cao trong mỗi gia đình. Vi thế, truyền thông,  giám sát và đánh giá để cụ thể hơn, tăng cường thực thi luật pháp phải được lồng ghép với thực thi bình đẳng giới trong các hương ước, trong các gia đình.

Một can thiệp khác là hỗ trợ và tăng cường giá trị của trẻ em gái. Làm sao để lồng ghép vào chương trình thay đổi hành vi. Phải tác động vào người lãnh đạo, địa phương, cộng đồng, các gia đình và các nhóm cung cấp dịch vụ. Họ là những đối tượng quan trọng cần can thiệp.

Như tôi đã nói, đây là một lĩnh vực mới với rất ít kinh nghiệm từ các quốc gia khác. Bởi thế, bản thân Việt Nam cũng phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm để có được giải pháp thích hợp, chiến lược phù hợp.

Việt Nam nhận biết về vấn đề mất cân bằng GTKS từ rất sớm và Chính phủ Việt Nam đã có những động thái can thiệp rất quyết liệt với nhiều cam kết. Tổng cục DS-KHHGĐ cũng có từ rất sớm. Chỉ từ sau 5 năm phát hiện mất CBGTKS tại Việt Nam, đã có sự tham gia của TCDS-KHHGĐ. Và đây là cơ hội để chúng ta học hỏi rất nhiều.
 
Nối tiếp ông Guilmoto, bà Kiran vui mừng chia sẻ khi bà thấy sự toàn diện của các báo cáo, khuyến nghị tại hội thảo. Bà nhấn mạnh, không một phòng ban, sở ngành nào có thể hoạt động một mình mà phải có sự phối hợp. Phải thiết kế và tạo dựng được sự nỗ lực chung. Tựu chung lại kết nối là việc làm rất quan trọng. Bà Kiran đánh giá cao sự đề xuất về chính sách, nhưng việc quan trọng là đưa những chính sách ấy vào thực tiễn.
 
Bà cho rằng, phải có những chiến lược mang tầm xuyên suốt. Phải có những bước đi nhất quán. Phải có sự ưu tiên, tận dụng những kế hoạch, chương trình. Phải biết cân bằng giữa các nguồn lực có trong tay. Chúng ta cũng nên xem xét sự kết nối giữa chính các đại biểu tại đây. Sau khi hội thảo kết thúc, bà mong các đại biểu vẫn giữ được sự kết nối để thông báo tình hình tại địa phương. Và cả việc cập nhật tín hiệu thông tin trong khu vực để tránh thất bại và tiếp thu những kinh nghiệm từ các nước khác để có được một mạng lưới năng động và hiệu quả.
Cuối cùng, bà cảm ơn và bày tỏ sự đánh giá cao ý kiến của quý vị trong hội thảo. "Chắc chắn chúng ta sẽ có được những kết quả như mong đợi sau buổi hội thảo", bà nói.
 
Ngay sau những lời phát biểu của bà Kiran, bà Mandeep K. O'Brien - Quyền Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam cũng nêu lên ý kiến của mình. Bà nói, đã có rất nhiều chứng cứ cho thấy nạo phá thai không phải là một giải pháp tại Việt Nam, mà khuyến khích sử dụng các biện pháp tránh thai khác. Đây là một tiến bộ rất đáng ghi nhận của Việt Nam. Và trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục sát cánh cùng Việt Nam thúc đẩy giảm thiểu MCBGTKS.
Chúng ta cần phải có sự hiểu biết chung của tất cả mọi người với những cách tiếp cận linh hoạt. Tôi muốn nêu bật 4 ý: Thứ nhất, Việt Nam đã có những thành tựu về pháp luật cũng như chính sách. Hai bộ khung là định hướng và triển khai giải quyết MCBGTKS đã được trình bày trong hội thảo là những khung quan trọng. Vì thế, với những gì chúng ta đang có thì cần thiết phải xem xét lại các chính sách và cách thực thi cho phù hợp. Ngoài ra, trong khi chúng ta tập trung nhiều vào việc tuyên truyền ở các cấp thì tôi vẫn nghĩ rằng phải có một chiến lược dài hơi. Công việc đầu tiên và cần thiết là cần phải có một bộ khung triển khai và cần có sự tham gia của nhiều tổ chức xã hội. Cuối cùng tôi muốn đưa ra một số gợi ý về việc phải có một lộ trình phối hợp giữa nhiều bộ ngành, xác định rõ trách nhiệm và công việc của từng đơn vị. Đồng thời cũng phải chú ý đến việc phân tích các tài liệu mà Việt Nam đã có. Khi chúng ta cụ thể hóa thành văn bản tất cả các số liệu sẽ trở thành một tài liệu cần thiết, quan trọng để vấn đề qua đó trở nên rõ ràng hơn.
Sau cùng tôi xin cảm ơn Chính phủ Việt Nam, Bộ Y tế Việt Nam, Tổng cục DS-KHHGĐ, đặc biệt là TS. Dương Quốc Trọng vì sự hỗ trợ trong thời gian qua. Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ hiểu nhau hơn thông qua những đối thoại như thế này. Chúng tôi cam kết tiếp tục sát cánh cùng nhau trong một mục tiêu chung là giảm thiểu tỉ lệ MCBGTKS.
 
4h25: Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ lên phát biểu kết thúc Hội thảo.
 
 
Sau một ngày làm việc khẩn trương, liên tục dưới sự chủ trì, chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân, Hội thảo đã được nghe ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng, báo cáo của Tổng cục DS-KHHGĐ, ý kiến của các bộ, ngành, các địa phương cùng ý kiến của các chuyên gia hàng đầu về TSGTKS và chia sẻ các giải pháp đã hoàn thành chương trình Hội thảo Quốc gia về MCBGTKS.
 
Phát biểu tổng kết Hội thảo, TS Dương Quốc Trọng – Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ khẳng định, Hội thảo đã đạt được sự đồng thuận cao về đánh giá thực trạng tình hình MCBGTKS, nguyên nhân, hệ lụy của vấn đề này tại Việt Nam. Các đại biểu đều nhất trí rằng, nếu không được can thiệp một cách quyết liệt, kịp thời, hệ lụy của MCBGTKS sẽ ảnh hưởng đến giống nòi, an ninh, đời sống kinh tế, chính trị của chúng ta. “Chúng ta đồng thuận rất cao về việc không để tình trạng này quá cao như các nước láng giềng mà phải có sự can thiệp ngay từ ngày hôm nay. Dù sự can thiệp này là rất khó khăn nhưng chúng ta khẳng định, thế giới đã có nước làm được, Việt Nam cũng sẽ làm được” – TS Trọng nhấn mạnh.
 
Trong các nhóm giải pháp đề xuất để can thiệp, giảm thiểu tình trạng MCBGTKS, TS Trọng nhấn mạnh đến giải pháp tuyên truyền vận động, giáo dục chuyển đổi hành vi, đồng thời phải có chính sách ưu tiên nữ. Bên cạnh đó, việc tăng cường cam kết về mặt chính trị phải được đặt lên hàng đầu. TS Trọng cho rằng, trong mọi vấn đề nơi nào không có sự vào cuộc của cấp ủy Đảng, chính quyền thì nơi đó không thành công. Một mình ngành y tế, dân số không thể đạt được sự thành công trong việc giảm thiểu MCBGTKS nếu không có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. 
 
TS Trọng cũng khẳng định, Việt Nam có nhiều thuận lợi trong việc giải quyết vấn đề MCBGTKS vì “đi sau” một số nước về vấn đề này nên có thể học hỏi được cả kinh nghiệm thành công và không thành công, nhằm có giải pháp phù hợp với bối cảnh của mình. “Chúng tôi mong Quỹ Dân số Liên Hợp quốc tiếp tục đồng hành với chúng tôi; giúp đỡ chúng tôi cả về kỹ thuật và nguồn lực để thực hiện công tác DS-KHHGĐ nói chung và giải quyết vấn đề MCBGTKS trong thời gian tới” - TS Trọng nói.
 
 
17h00: Hội thảo kết thúc.
 
Nhóm PV Giadinh.net.vn
 
kieudiep
Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn
Nghệ An tổ chức Hội thi 'Người cao tuổi sống vui, sống khoẻ'

Nghệ An tổ chức Hội thi 'Người cao tuổi sống vui, sống khoẻ'

Dân số và phát triển - 9 giờ trước

GĐXH - Hội thi là hoạt động thiết thực nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm cho cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về người cao tuổi. Đồng thời, khẳng định vai trò, sự cống hiến của người cao tuổi đối với mọi mặt của đời sống...

Ung thư buồng trứng có chữa được không?

Ung thư buồng trứng có chữa được không?

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

Ung thư buồng trứng là căn bệnh thường tiến triển âm thầm và triệu chứng không rõ ràng khiến nhiều người chủ quan, khi đi khám đã ở giai đoạn muộn. Vậy ung thư buồng trứng có chữa được không, làm thế nào để phát hiện sớm?

Có phải trẻ béo phì dễ dậy thì sớm?

Có phải trẻ béo phì dễ dậy thì sớm?

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

Trẻ béo phì có nguy cơ cao dậy thì sớm hơn so với trẻ có cân nặng bình thường. Vậy nguyên nhân tại sao trẻ béo phì lại dễ bị dậy thì sớm và có thể phòng ngừa được không?

Phụ nữ mang thai bị đa ối nên điều chỉnh chế độ ăn như thế nào?

Phụ nữ mang thai bị đa ối nên điều chỉnh chế độ ăn như thế nào?

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

Đa ối là khi lượng nước ối vượt quá mức bình thường ảnh hưởng đến sức khỏe cả mẹ và bé. Mặc dù chế độ ăn không phải là yếu tố quyết định duy nhất nhưng việc điều chỉnh chế độ ăn uống hợp lý có thể hỗ trợ cải thiện tình trạng này.

Giảm nguy cơ sinh non khi bà mẹ được quản lý thai nghén đầy đủ

Giảm nguy cơ sinh non khi bà mẹ được quản lý thai nghén đầy đủ

Dân số và phát triển - 3 ngày trước

Nguy cơ sinh non sẽ được giảm thiểu tối đa nếu thai phụ được khám thai và thực hiện sinh tại cơ sở y tế có đầy đủ phương tiện kỹ thuật cùng đội ngũ y bác sỹ trợ giúp.

Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng

Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

GĐXH - Với phương châm "đưa chính sách đến gần dân," xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng (chăm sức khỏe sinh sản, hỗ trợ người cao tuổi) và phát huy vai trò của đội ngũ cộng tác viên dân số.

Bổ ích hội thi rung chuông vàng tìm hiểu kiến thức về dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản

Bổ ích hội thi rung chuông vàng tìm hiểu kiến thức về dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

GĐXH - Hội thi giúp cho học sinh nâng cao những kỹ năng hoạt động, kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. Đồng thời, tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích để học sinh thể hiện tài năng, trí tuệ, sự sáng tạo.

Gần 150.000 em bé chào đời nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm

Gần 150.000 em bé chào đời nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

Sau 25 năm, Việt Nam có gần 300.000 chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm được thực hiện, 147.000 em bé ra đời khoẻ mạnh. Trong đó, có gần 3.000 trẻ được chào đời tại Bệnh viện Hùng Vương nhờ kỹ thuật IVF.

5 biểu hiện cho thấy bạn đã mắc hội chứng ống cổ tay

5 biểu hiện cho thấy bạn đã mắc hội chứng ống cổ tay

Dân số và phát triển - 5 ngày trước

Hội chứng ống cổ tay là tình trạng phổ biến trong cộng đồng. Hiện số người mắc hội chứng này ngày càng tăng do liên quan đến công việc có sử dụng nhiều tới độ linh hoạt, tỉ mỉ và lặp đi lặp lại của cổ tay.

Bác sĩ khuyến nghị 5 điều quan trọng nên biết về ung thư buồng trứng

Bác sĩ khuyến nghị 5 điều quan trọng nên biết về ung thư buồng trứng

Dân số và phát triển - 6 ngày trước

Phụ nữ thường hiểu nhầm những dấu hiệu ung thư buồng trứng là triệu chứng của các căn bệnh về phụ khoa khác. Việc biết về dấu hiệu ung thư buồng trứng giúp chị em mắc bệnh được điều trị và sớm tăng tỷ lệ sống.

Top