Trong giai đoạn 2012 - 2019, tổng tỷ suất sinh - TFR (số con sinh ra sống bình quân của một người phụ nữ trong suốt thời kỳ sinh đẻ từ 15-49 tuổi) - đạt bằng hoặc dưới mức sinh thay thế (dao động từ 2,04 đến 2,10 con/phụ nữ). Năm 2019, con số này là 2,09. Số địa phương có TFR cao hơn mức sinh thay thế đang có xu hướng tăng. Cụ thể, năm 2009 có 29 tỉnh, thành phố, 10 năm sau, con số này tăng lên 41.
Qua số liệu thống kê cũng cho thấy, trong bức tranh chung về mức sinh còn rất nhiều mảng màu khác biệt. 4 trên 6 vùng hiện có mức sinh cao hơn mức sinh thay thế, gồm 33 tỉnh, thành phố là Trung du và miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Riêng trong 33 tỉnh có mức sinh cao có 12 tỉnh thuộc nhóm có TFR từ 2,5 con/phụ nữ trở lên. Hai vùng có mức sinh thấp và thấp hơn mức sinh thay thế là Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long (dưới 1,6 con).
Cũng trong năm 2019, TFR của khu vực thành thị là 1,83 con/phụ nữ, thấp hơn so với khu vực nông thôn là 2,26 con/phụ nữ. Lý giải về nguyên nhân có sự khác biệt về TFR giữa khu vực thành thị và nông thôn, các chuyên gia cho hay, do các cặp vợ chồng ở thành thị có cơ hội tiếp cận với các nguồn thông tin và các cơ sở y tế cung cấp các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình dễ dàng hơn, giúp họ tránh mang thai và sinh con ngoài ý muốn. Đồng thời, do điều kiện sống ở khu vực thành thị tốt hơn khu vực nông thôn nên tỷ lệ tử vong sơ sinh và tử vong trẻ em ở thành thị thấp hơn ở nông thôn, từ đó góp phần làm giảm nhu cầu sinh thay thế ở khu vực này.
Kết quả thống kê cũng cho thấy, 2 thập kỷ qua, khi mức sinh ở thành thị hầu như không thay đổi thì mức sinh ở khu vực nông thôn giảm khá nhanh. Cụ thể, nếu năm 2001 con số này ở nông thôn là 2,38 con/phụ nữ thì tới 2019 xuống còn 2,26. Điều này cho thấy có sự thay đổi rất tích cực trong nhận thức về lợi ích sinh ít con, chỉ sinh đủ 2 con của phụ nữ nông thôn.
Giảm bớt khoảng cách về mức sinh
Với mức sinh ổn định ở dưới mức sinh thay thế trong hơn một thập kỷ qua một lần nữa khẳng định sự thành công của Chương trình Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Chương trình dân số và phát triển và nhiều chương trình, chiến dịch chăm sóc sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là sức khỏe sinh sản ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, thông tin từ Tổng điều tra dân số và nhà ở cũng cho thấy phụ nữ có trình độ đại học có TFR thấp nhất (1,85 con/phụ nữ), tiếp đến là phụ nữ có trình độ cao đẳng (1,91 con/phụ nữ). Trong đó, phụ nữ chưa bao giờ đi học có TFR khá cao (2,59 con/phụ nữ) và phụ nữ có trình độ sơ cấp có TFR cao nhất (3,71 con/phụ nữ).
Cùng với đó, phụ nữ thuộc nhóm “giàu nhất” có mức sinh thấp nhất (2,00 con/phụ nữ); phụ nữ thuộc 3 nhóm (giàu, trung bình và nghèo) có số con trung bình là 2 con; hụ nữ thuộc nhóm “nghèo nhất” có mức sinh cao nhất, với TFR là 2,40 con/phụ nữ, cao hơn nhiều mức sinh thay thế. Các chuyên gia cho rằng, điều này cho thấy cần đầu tư hơn nữa để nâng cao chất lượng dịch vụ, thông tin chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình cho phụ nữ thuộc nhóm “nghèo nhất”. Công tác truyền thông nhằm giảm bớt khoảng cách về mức sinh giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa các vùng và các nhóm dân cư khác nhau cần đầu tư hơn, linh hoạt hơn.
Phần lớn phụ nữ Việt Nam sinh con ở độ tuổi từ 20 - 29. Tuy nhiên, phụ nữ thành thị sinh muộn và sinh ít con hơn phụ nữ nông thôn. Ở khu vực thành thị, mức sinh cao nhất thuộc về phụ nữ 25 - 29 tuổi với 127 trẻ sinh sống/1.000 phụ nữ; trong khi ở khu vực nông thôn, mức sinh cao nhất thuộc về nhóm tuổi 20 - 24 với 147 trẻ sinh sống/1.000 phụ nữ. Nếu so với mức sinh của phụ nữ cùng nhóm tuổi 20 - 24 ở khu vực thành thị, con số được sinh ra của những phụ nữ sống ở khu vực nông thôn cao gần gấp đôi (147 trẻ em sinh sống/1.000 phụ nữ so với 78 trẻ em sinh sống/1.000 phụ nữ).
Trên phạm vi toàn quốc, phụ nữ chưa thành niên (từ 10 - 17 tuổi) sinh con chiếm tỷ trọng 3,3‰, trong đó cao nhất ở Trung du và miền núi phía Bắc (9,7‰), cao hơn 8,5 lần so với vùng Đồng bằng sông Hồng (1,1‰). Tây Nguyên là vùng có tỷ lệ phụ nữ từ 10 - 17 tuổi sinh con cao thứ hai (6,8‰). Tỷ lệ phụ nữ từ 10 - 17 tuổi sinh con ở khu vực nông thôn là 4,2‰, cao hơn ba lần so với khu vực thành thị (1,3‰). Điều này chứng tỏ nữ chưa thành niên ở khu vực nông thôn có xu hướng sinh con sớm hơn khu vực thành thị.
Điều này có thể là do phụ nữ ở khu vực nông thôn không có nhiều cơ hội để theo học trình độ cao hơn như phụ nữ ở khu vực thành thị nên họ thường kết hôn và sinh con sớm hơn phụ nữ ở khu vực thành thị; hoặc có thể do phong tục, tập quán tại các vùng nông thôn vẫn còn hiện tượng tảo hôn nên dẫn đến phụ nữ ở khu vực nông thôn sinh con sớm, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa...