Hà Nội
23°C / 22-25°C

Báo cáo tham luận của tỉnh Bắc Giang tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh Dân số (2003-2013)

Thứ ba, 14:28 24/09/2013 | Dân số và phát triển

         Kết quả thực hiện giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh trên địa bàn tỉnh và khuyến nghị hoàn thiện Pháp lệnh Dân số

I. Tình hình kinh tế xã hội tỉnh Bắc Giang

Bắc Giang là một tỉnh miền núi, nằm cách Thủ đô Hà Nội 50 km về phía Bắc, với diện tích tự nhiên là 3.827km2; có 9 huyện và 1 thành phố (trong đó có 6 huyện miền núi và 1 huyện vùng cao) và 230 xã, phường, thị trấn với hơn 20 dân tộc anh em. Quá trình đô thị hóa diễn ra chậm, tỷ lệ dân số làm nông nghiệp cao (chiếm 90%), phát triển kinh tế, thu nhập bình quân trên đầu người còn thấp, trình độ dân trí chưa cao, phong tục tập quán còn lạc hậu.

Công tác dân số - KHHGĐ tỉnh Bắc Giang trong vài năm trở lại đây đứng trước những khó khăn, thách thức lớn, đó là: số sinh và sinh lần 3 trở lên tiếp tục tăng cao ở một số địa phương, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) nghiêm trọng và đang là 1 trong 10 tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) cao nhất toàn quốc.

II. Kết quả thực hiện các can thiệp nhằm giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trên địa bàn tỉnh

1. Thực trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tỉnh Bắc Giang

1.1. Tỷ số giới tính khi sinh ở Bắc Giang ở mức cao, ngày càng lan rộng

Theo kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, TSGTKS tỉnh Bắc Giang là 116,8 nam/100 nữ, cao hơn 6,3 điểm so với bình quân cả nước (110,5/100) và là 1 trong 4 tỉnh có tỷ lệ MCBGTKS cao nhất cả nước.

So sánh kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở tỉnh Bắc Giang năm 1999 và 2009, thấy qua 10 năm, tỷ số giới tính (TSGT) của nhóm trẻ dưới 1 tuổi tỉnh Bắc Giang tăng 13 điểm (101,8 năm 1999 tăng lên 114,8 năm 2009), TSGT của nhóm trẻ từ 1 đến 4 tuổi tăng 6,6 điểm (105 năm 1999 tăng lên 111,6 năm 2009). Nếu so sánh với mức chung của cả nước năm 2009, TSGT của nhóm trẻ dưới 1 tuổi tỉnh Bắc Giang cao hơn 5,2 điểm và TSGT của nhóm trẻ từ 1 đến 5 tuổi cao hơn 3,2 điểm.

Theo kết quả tổng hợp báo cáo của ngành dân số - KHHGĐ, TSGTKS tỉnh Bắc Giang đã có sự không cân bằng không chỉ từ năm 2009 mà trong khoảng thời gian 4 năm trước đó, từ những năm 2004-2005. Năm 2004, tỷ số này là 108 và không ngừng tăng nhanh qua các năm: năm 2007 là 121, năm 2009 là 122, năm 2010 là 118,7/100, năm 2011 là 119,7, năm 2012 là 118,5 và 8 tháng đầu năm 2013 tỷ số này là 118,2 giảm 2,1 điểm so cùng kỳ năm 2012. Nếu như năm 2004 toàn tỉnh có 05 huyện thì năm 2007, 2008, toàn tỉnh có 9/10 huyện, thành phố có TSGTKS ở mức 108 trở lên, đến năm 2011 đã tăng lên 10/10 huyện, thành phố.

1.2. Mất cân bằng giới tính khi sinh xảy ra ngay từ lần sinh thứ nhất và đặc biệt cao ở lần sinh thứ 3 trở lên

Với đặc trưng văn hóa Á đông, lựa chọn giới tính ở Việt Nam nói chung và Bắc Giang nói riêng chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu có con trai. Thực tế, chưa có nghiên cứu nào cụ thể về TSGTKS theo thứ tự sinh ở Bắc Giang. Theo tổng hợp của hệ thống dân số - KHHGĐ huyện, thành phố của Bắc Giang cho kết quả TSGTKS trong mỗi lần sinh có sự khác biệt đáng kể, đặc biệt là ở lần sinh thứ ba, trở lên, tỷ số này tăng cao, đột biến.

Qua tổng hợp trong giai đoạn năm 2009-2012, thấy TSGTKS cao ngay từ lần sinh đầu tiên (112). Đặc biệt ở lần sinh thứ 3, TSGTKScao gấp gần 2 lần so với lần sinh thứ nhất (211), lần sinh thứ 4 trở lên, tỷ số này cao gấp gần 3 lần so với lần sinh thứ nhất và ở mức trên 300. Trong khi trên phạm vi toàn quốc vào năm 2009, ở lần sinh thứ 3 trở lên, TSGTKS là 115,5.
 
Một vấn đề nữa đó là TSGTKS tỉnh Bắc Giang cao ở lần sinh đầu tiên, và tiếp tục cao hơn ở những lần sinh tiếp theo, trong khi trên phạm vi quốc gia năm 2009, TSGTKS lần sinh thứ 2 (109) thấp hơn lần sinh đầu tiên (110,2).

1.3. Mức độ mất cân bằng giới tính khi sinh cao hơn nhiều ở những cặp vợ chồng có trình độ học vấn cao, tình trạng kinh tế khá giả

Hiện nay tại Bắc Giang chưa có số liệu báo cáo thống kê, nhưng qua phản ánh của cán bộ Cộng tác viên dân số và viên chức dân số xã, phường, thị trấn cho thấy nhiều cặp vợ chồng là cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang ... và những cặp vợ chống có kinh tế khá giả đã mang thai, đẻ nhiều hơn trước đây và phổ biến ở các địa phương.
 
1.4. Phong tục tập quán của người dân
 
Bắc Giang là một tỉnh miền núi, quá trình đô thị hóa diễn ra chậm, tỷ lệ dân số làm nông nghiệp cao, trình độ dân trí chưa cao, phong tục tập quán còn lạc hậu. Ở Bắc Giang cũng như các vùng miền khác trên lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là các tỉnh phía Bắc, hệ tư tưởng văn hóa - cụ thể là quan niệm rằng dòng tộc chỉ được nối tiếp bởi những người đàn ông và thờ cúng tổ tiên chỉ chủ yếu được thực hiện bởi nam giới. Quan niệm trẻ cậy cha, già cậy con trong khi mô hình cư trú bên nội vẫn phổ biến và mô hình thừa kế tài sản trong đó con trai được nhận phần tài sản lớn hơn của cha mẹ cộng với bối cảnh kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, khả năng tự chi trả các chi phí chăm sóc tuổi già còn hạn chế. Các yếu tố đó khiến mọi người phải cố gắng có con trai để tiếp nối dòng tộc, để chăm sóc khi về già. Ngoài ra, áp lực từ cộng đồng cũng khiến người đàn ông phải cố gắng sinh con trai để khẳng định bản thân.

2. Các biện pháp khống chế tốc độ gia tăng mất cân bằng giới tính khi sinh tỉnh Bắc Giang

2.1. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dân số

Tại Bắc Giang, các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dân số đã được tiến hành thường xuyên, đồng bộ dưới nhiều hình thức. Cơ quan DS-KHHGĐ các cấp đã tích cực phối hợp với MTTQ, ban, ngành, các đoàn thể nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng cùng cấp tổ chức các hoạt động truyền thông, vận động, giáo dục về dân số. Đặc biệt vai trò nòng cốt là đội ngũ cộng tác viên, tuyên truyền viên dân số ở thôn, bản, tổ dân phố trong công tác tuyên truyền, tư vấn, vận động đối tượng chấp hành chính sách dân số thông qua các buổi họp thôn, họp nhóm, sinh hoạt các chi hội, tổ phụ nữ, nông dân, câu lạc bộ... và vận động tại hộ gia đình.

Các sở, ban, ngành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình thường xuyên lồng ghép công tác dân số vào kế hoạch hoạt động hàng năm, đa dạng hóa các nội dung, hình thức tuyên truyền pháp luật về dân số nói chung và các hệ lụy của MCBGTKS nói riêng phù hợp với từng nhóm đối tượng do ngành quản lý; chủ động phối hợp với cơ quan chuyên môn tổ chức các hoạt động truyền thông đến đối tượng có hiệu quả, đã huy động được đông đảo các lực lượng xã hội và cá nhân tham gia tuyên truyền, thực hiện pháp luật về dân số. Đưa nội dung Pháp lệnh Dân số vào tiêu chí  đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và bình xét các danh hiệu thi đua hàng năm đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong ngành, cơ quan, đơn vị.

MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong tỉnh đã tích cực tuyên truyền vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân thực hiện chính sách dân sô - KHHGĐ và các văn bản pháp luật có liên quan thông qua nhiều hình thức như hội nghị, hội thảo, hội thi, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề và đặc biệt là thông qua sinh hoạt các câu lạc bộ.

Sau nhiều năm liên tục tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dân số, nhận thức của người dân đã có những chuyển biến rõ rệt. Đa số nhân dân đã chấp nhận mô hình gia đình ít con. Tỷ suất sinh thô của tỉnh đã giảm từ 18.2%o năm 2003 xuống còn 17.6%o năm 2012 ( giảm 0,6%o), số con trung bình trên một phụ nữ giảm từ 2.2 con năm 2003 còn 1.94 con năm 2011. Mức sinh thấp đã duy trì ổn định quy mô dân số trong những năm qua không vượt qua ngưỡng 1,5 triệu dân.

2.2. Nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về cấm lựa chọn giới tính thai nhi và các can thiệp tại địa phương
 
Đứng trước thực trạng MCBGTKS đang diễn ra ở địa phương, nhận thức được nguy cơ và hệ lụy MCBGT; trong thời gian qua Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Giang đã ban hành nhiều văn bản, chính sách nhằm giải quyết tình trạng này:

- Tỉnh ủy ban hành: Quy định số 08/QĐ-TU ngày 10/12/2003 về việc xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm chính sách DS - KHHGĐ; Chương trình hành động số 74-CTr/TU ngày 25/07/2005 thực hiện Nghị quyết số 47/NQ-TW về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ; Chỉ thị số số 09/CT/TU ngày 07/5/2007 của Ban thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác dân số, gia đình và trẻ em trên địa bàn tỉnh;

UBND tỉnh ban hành: Quyết định số 27/2006/QĐ-UBND ngày 06/04/2006 về việc ban hành chương trình hành động thực hiện Quyết định số 09/2006/QĐ-TTg ngày 10/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGĐ; Quyết định số 542/QĐ-UBND ngày 08/4/2009 của UBND tỉnh về việc phê duyệt đề án can thiệp giám thiểu MCBGTKS trên địa bàn tỉnh Bắc Giang; Kế hoạch số 708/KH-UBND ngày 19/4/2012 thực hiện Chiến lược dân số, SKSS tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2011-2015; Chỉ thị số 11/CT-UBND ngày 31/8/2012 về tăng cường kiểm soát MCBGTKS trên địa bàn tỉnh Bắc Giang; Quyết định số 276/QĐ-UBND ngày 27/6/2013 của UBND tỉnh Bắc Giang về việc chuyển Trung tâm dân số - KHHGĐ cấp huyện từ trực thuộc Chi cục dân số - KHHGĐ, thuộc Sở Y tế về trực thuộc UBND cấp huyện quản lý và một số văn bản chỉ đạo quan trọng khác.

Xác định công tác dân số - KHHGĐ nói chung và giải quyết vấn đề MCBGTKS giai đoạn hiện nay nói riêng, là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị. Với một loạt các giải pháp tích cực, lâu dài, đề ra mục tiêu phải giảm mạnh tình trạng MCBGTKS; Sở Y tế tham mưu UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo các Sở, ngành, các địa phương thực hiện một số nội dung như:

- UBND các huyện, thành phố xây dựng kế hoạch có các biện pháp cụ thể trong việc kiểm soát tình trạng MCBGTKS tại địa phương. Chỉ đạo tăng cường công tác truyền thông về tình trạng MCBGTKS nhất là các đối tượng liên quan trực tiếp. Lồng ghép truyền thông tình trạng sinh con thứ 3 trở lên, tình trạng MCBGTKS gắn với nhiệm vụ chính trị của địa phương, gắn với các nội dung thi đua, đưa vào quy ước, hương ước, trong xây dựng thôn, bản, làng văn hóa hàng năm.

Chỉ đạo rà soát nắm chắc số đối tượng có hai con gái, đối tượng có nguy cơ sinh con thứ 3 trên địa bàn, để tuyên truyền vận động không sinh con thứ 3 và không lựa chọn giới tính thai nhi (GTTN) khi sinh.

- Ngành Y tế tổ chức ký cam kết, phối hợp liên ngành với MTTQ tỉnh, Đài PT-TH tỉnh, Báo Bắc Giang, Hội LHPN tỉnh, Tỉnh đoàn, Sở Thông tin và Truyền thông tăng cường công tác truyền thông, giáo dục, vận động từng bước thay đổi hành vi lựa chọn giới tính thai nhi GTTN; đồng thời chỉ đạo UBND các huyện/thành phố, UBND cấp xã tổ chức ký cam kết liên ngành về tuyên truyền vận động nhân dân không lựa chọn GTTN dưới mọi hình thức.

- Sở Y tế chỉ đạo cán bộ y tế trong toàn ngành, các cơ sở y tế tư nhân có hoạt động liên quan lựa chọn GTTN, ký cam kết với Giám đốc các đơn vị trong ngành và Trưởng Phòng Y tế các huyện, thành phố không thực hiện hành vi lựa chọn GTTN, bản cam kết này được niêm yết tại các khoa, phòng và các cơ sở hành nghề y tế tư nhân liên quan kỹ thuật lựa chọn GTTN.

Tăng cường giáo dục nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, nhân viên y tế thông qua các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật về kiểm soát MCBGTKS, bình đẳng giới. Có hình thức kỷ luật cao đối với vi phạm của cán bộ y tế khi thực hiện chẩn đoán GTTN.

- Bổ sung biên chế, hoàn thiện 100% xã có cán bộ chuyên trách dân số; hỗ trợ thù lao cho cộng tác viên dân số thôn, bản, tổ dân phố 100.000đ/tháng tạo điều kiện và khuyến khích các cộng tác viên dân số hoạt động có hiệu quả.

- Làm tốt công tác thi đua, khen thưởng, trong đó đặc biệt quan tâm khắc phục bệnh thành tích trong thực hiện chính sách dân số - KHHGĐ. Chỉ đạo xây dựng quy chế khen thưởng riêng trong lĩnh vực dân số - KHHGĐ. Tham mưu HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 13/2007/NQ-HĐND ngày 19/07/2007 của HĐND tỉnh khóa XVI quy định chế độ khen thưởng và xử lý vi phạm trong công tác DS - KHHGĐ;

- Song song với công tác phổ biến quy định của pháp luật về dân số nói chung và cấm lựa chọn GTTN nói riêng; hàng năm, các sở, ngành liên quan đã tổ chức thanh, kiểm tra việc thực thi pháp luật về cấm lựa chọn GTTN tại các cơ sở y tế công lập và tư nhân, các cơ sở kinh doanh sách, ấn phẩm văn hóa.

- Năm 2009, được sự hỗ trợ của Tổng cục Dân số - KHHGĐ, UBND tỉnh Bắc Giang đã triển khai đề án Can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh tại 80 xã của 5 huyện, thành phố trong tỉnh. Đến nay, hoạt động này đã được triển khai tại 230/230 xã, phường, thị trấn và 10/10 huyện, thành phố của tỉnh.

III. Thách thức trong việc tỷ số giới tính khi sinh cao trên địa bàn tỉnh

Nằm trong bối cảnh chung của Việt Nam cũng như một số nước láng giềng, trong tương lai không xa nếu tình trạng này kéo dài Bắc Giang cũng phải đối mặt với những thách thức to lớn trong vấn đề dư thừa nam giới với khoảng 10% nam thanh niên. Kéo theo đó là những vấn đề liên quan đến khó khăn trong kết hôn, kết hôn có yếu tố nước ngoài gia tăng, các tệ nạn xã hội gia tăng, bất bình đẳng giới...

Giải quyết vấn đề này, Bắc Giang gặp một số khó khăn như :

- Tâm lý ưa thích con trai có từ lâu đời, nên gặp khó khăn trong tuyên truyền chuyển đổi nhận thức và hành vi của người dân, nhất là đối tượng có trình độ học vấn cao, tình trạng kinh tế khá giả.

- Việc phát hiện để xử lý vi phạm hỗ trợ lựa chọn giới tính thai nhi cũng rất khó khăn, khó phát hiện.

- Trong tình hình kinh tế xã hội của tỉnh hiện nay, việc tập trung kinh phí cho giải pháp khuyến khích phụ nữ, trẻ em gái và an sinh xã hội cho người cao tuổi khó khăn, là vấn đề tỉnh đang quan tâm.

IV. Kinh nghiệm của địa phương trong triển khai can thiệp nhằm giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh; Các đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung trong dụ án Luật Dân số

1. Kinh nghiệm của địa phương

1.1. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể phải coi công tác dân số là một nhiệm vụ quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, kịp thời nắm bắt các vấn đề mới nảy sinh trong công tác dân số của từng địa phương để tăng cường chỉ đạo giải quyết của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp.  

1.2. Phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, đoàn thể trong tổ chức thực hiện, cũng như giám sát việc thực hiện quy định, chính sách dân số. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục pháp luật song song với hoạt động kiểm tra, thanh tra.

1.3. Quan tâm đúng mức đến tổ chức, bộ máy làm công tác dân số các cấp, đặc biệt đối với mạng lưới cán bộ dân số cơ sở là điều kiện tiên quyết để thực hiện có hiệu quả công tác dân số nói chung và tham mưu, tuyên truyền giải quyết vấn đề MCBGTKS nói riêng.

2. Các đề xuất kiến nghị sửa đổi, bổ sung trong dự án Luật Dân số

2.1. Ban hành đồng bộ các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật, đặc biệt là ban hành chế tài, thẩm quyền xử lý các vi phạm Luật trong đó có vi phạm lựa chọn GTTN, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ giúp cho các cơ quan thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về dân số và nâng cao hiệu lực, hiệu quả Pháp luật.

2.2. Luật Dân số cần đưa nội dung chính sách khuyến khích về vật chất và tinh thần cho những gia đình có con 1 bề là gái, trong đó quan tâm chính sách đối với người cao tuổi, chính sách việc làm đối với phụ nữ và giáo dục đối với trẻ em gái trong gia đình có con 1 bề là gái và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cộng đồng.

2.3. Luật Dân số tới đây cần có quy định "khoảng cách giữa các lần sinh", trên thực tế hiện nay tình trạng sinh dầy khá phổ biến, ảnh hưởng xấu đến mục tiêu chất lượng dân số.

2.4. Về chất lượng dân số, cần quy định một số hành vi bắt buộc như: đối với nam, nữ phải kiểm tra sức khỏe trước khi kết hôn; đối với trường hợp có nguy cơ bị khuyết tật về gen, nhiễm chất độc hóa học, nhiễm HIV/AIDS phải có kết quả xét nghiệm trước khi kết hôn hoặc trước khi sinh con để đảm bảo chất lượng giống nòi.
 
Kính thưa các vị đại biểu!

Chúng tôi hy vọng rằng cùng với sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, sâu sát của Chính phủ, các Bộ, ngành TW, sự nỗ lực của các cấp ủy Đảng, Chính quyền địa phương trong thời gian tới sẽ giải quyết tốt vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong Kế hoạch thực hiện Chiến lược Dân số - SKSS giai đoạn 2011-2015.

Nhân dịp này, tôi xin kính chúc các vị đại biểu mạnh khoẻ, hạnh phúc, chúc công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình của chúng ta đạt được nhiều kết quả tích cực.

Xin trân trọng cảm ơn.

kimvan
Bình luận
Xem thêm bình luận
Ý kiến của bạn
Bị thủy đậu khi mang thai nguy hiểm thế nào?

Bị thủy đậu khi mang thai nguy hiểm thế nào?

Dân số và phát triển - 1 ngày trước

Tỷ lệ phụ nữ mang thai mắc thủy đậu không cao hơn so với mặt bằng chung tỷ lệ mắc bệnh thủy đậu ở người lớn, tuy nhiên mức độ nghiêm trọng của bệnh thường nặng nề hơn.

Nghệ An tổ chức Hội thi 'Người cao tuổi sống vui, sống khoẻ'

Nghệ An tổ chức Hội thi 'Người cao tuổi sống vui, sống khoẻ'

Dân số và phát triển - 2 ngày trước

GĐXH - Hội thi là hoạt động thiết thực nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm cho cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về người cao tuổi. Đồng thời, khẳng định vai trò, sự cống hiến của người cao tuổi đối với mọi mặt của đời sống...

Ung thư buồng trứng có chữa được không?

Ung thư buồng trứng có chữa được không?

Dân số và phát triển - 3 ngày trước

Ung thư buồng trứng là căn bệnh thường tiến triển âm thầm và triệu chứng không rõ ràng khiến nhiều người chủ quan, khi đi khám đã ở giai đoạn muộn. Vậy ung thư buồng trứng có chữa được không, làm thế nào để phát hiện sớm?

Có phải trẻ béo phì dễ dậy thì sớm?

Có phải trẻ béo phì dễ dậy thì sớm?

Dân số và phát triển - 3 ngày trước

Trẻ béo phì có nguy cơ cao dậy thì sớm hơn so với trẻ có cân nặng bình thường. Vậy nguyên nhân tại sao trẻ béo phì lại dễ bị dậy thì sớm và có thể phòng ngừa được không?

Phụ nữ mang thai bị đa ối nên điều chỉnh chế độ ăn như thế nào?

Phụ nữ mang thai bị đa ối nên điều chỉnh chế độ ăn như thế nào?

Dân số và phát triển - 4 ngày trước

Đa ối là khi lượng nước ối vượt quá mức bình thường ảnh hưởng đến sức khỏe cả mẹ và bé. Mặc dù chế độ ăn không phải là yếu tố quyết định duy nhất nhưng việc điều chỉnh chế độ ăn uống hợp lý có thể hỗ trợ cải thiện tình trạng này.

Giảm nguy cơ sinh non khi bà mẹ được quản lý thai nghén đầy đủ

Giảm nguy cơ sinh non khi bà mẹ được quản lý thai nghén đầy đủ

Dân số và phát triển - 5 ngày trước

Nguy cơ sinh non sẽ được giảm thiểu tối đa nếu thai phụ được khám thai và thực hiện sinh tại cơ sở y tế có đầy đủ phương tiện kỹ thuật cùng đội ngũ y bác sỹ trợ giúp.

Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng

Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng

Dân số và phát triển - 6 ngày trước

GĐXH - Với phương châm "đưa chính sách đến gần dân," xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng (chăm sức khỏe sinh sản, hỗ trợ người cao tuổi) và phát huy vai trò của đội ngũ cộng tác viên dân số.

Bổ ích hội thi rung chuông vàng tìm hiểu kiến thức về dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản

Bổ ích hội thi rung chuông vàng tìm hiểu kiến thức về dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản

Dân số và phát triển - 6 ngày trước

GĐXH - Hội thi giúp cho học sinh nâng cao những kỹ năng hoạt động, kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. Đồng thời, tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích để học sinh thể hiện tài năng, trí tuệ, sự sáng tạo.

Gần 150.000 em bé chào đời nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm

Gần 150.000 em bé chào đời nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm

Dân số và phát triển - 6 ngày trước

Sau 25 năm, Việt Nam có gần 300.000 chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm được thực hiện, 147.000 em bé ra đời khoẻ mạnh. Trong đó, có gần 3.000 trẻ được chào đời tại Bệnh viện Hùng Vương nhờ kỹ thuật IVF.

5 biểu hiện cho thấy bạn đã mắc hội chứng ống cổ tay

5 biểu hiện cho thấy bạn đã mắc hội chứng ống cổ tay

Dân số và phát triển - 1 tuần trước

Hội chứng ống cổ tay là tình trạng phổ biến trong cộng đồng. Hiện số người mắc hội chứng này ngày càng tăng do liên quan đến công việc có sử dụng nhiều tới độ linh hoạt, tỉ mỉ và lặp đi lặp lại của cổ tay.

Top