Con số bất ngờ về lượng người mang gene bệnh tan máu bẩm sinh
GiadinhNet - Theo kết quả khảo sát năm 2017, tại Việt Nam có khoảng 12 triệu người mang gene bệnh Thalassemia (bệnh tan máu bẩm sinh) và có ở tất cả các tỉnh, các dân tộc. Có trên 20.000 người cần phải điều trị cả đời và mỗi năm có thêm khoảng 8.000 trẻ em sinh ra bị bệnh Thalassemia. Theo các chuyên gia, căn bệnh cần được tầm soát trước khi các cặp kết hôn và được tư vấn để tránh và giảm thiểu được gánh nặng và nỗi đau từ căn bệnh này.

Điều trị bệnh Thalassemia tại Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương. Ảnh: TL
Con cái sẽ mắc bệnh khi cả hai bố mẹ mang gene bệnh
Thalassemia là một bệnh di truyền, nguyên nhân do đột biến gene dẫn đến hồng cầu bị vỡ tự nhiên và thường xuyên. Từ đó, làm cho người bệnh bị thiếu máu do hồng cầu bị vỡ, vàng da và niêm mạc, lách to. Trên thế giới ước tính có khoảng 7% dân số mang gene bệnh, 1,1% các cặp vợ chồng sinh con bị bệnh hoặc mang gene bệnh. 0,27% trường hợp có thai sinh ra con bị bệnh huyết sắc tố; mỗi năm có khoảng 300.000-500.000 trẻ sinh ra bị bệnh Thalassemia ở mức độ nặng.
Bệnh phân bố khắp toàn cầu và tỷ lệ cao ở vùng Địa Trung Hải, Trung Đông, châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ người mắc bệnh và mang gene bệnh cao. Theo kết quả khảo sát năm 2017, tại Việt Nam có khoảng 12 triệu người mang gene bệnh Thalassemia và có ở tất cả các tỉnh, các dân tộc. Trong đó, tập trung nhiều nhất ở đồng bào các dân tộc, vùng có tập quán lạc hậu kết hôn cận huyết thống. Tỷ lệ một số dân tộc mang gene bệnh được thống kê như sau: Dân tộc Kinh 2-4%, dân tộc Mường (như ở Hòa Bình) 22%, dân tộc Thái 22% và dân tộc Ê đê trên 40%. Trong số đó có trên 20.000 người bị Thalassemia phải điều trị cả đời. Mỗi năm có khoảng trên 8.000 trẻ em sinh ra bị Thalassemia, trong đó có 2.000 trẻ ở mức độ nặng và khoảng 800 trẻ không thể ra đời do phù thai.
Tại buổi Giao lưu trực tuyến “Thực trạng bệnh Tan máu bẩm sinh hiện nay và phòng chống bệnh từ gia đình đến cộng đồng” do Báo Gia đình & Xã hội, Tổng cục DS-KHHGĐ (Bộ Y tế) tổ chức ngày 28/9, TS Bạch Quốc Khánh, Viện trưởng Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương cho biết: Thalassemia là một bệnh di truyền, con cái sẽ mắc bệnh khi cả hai bố mẹ mang gene bệnh. Biểu hiện của bệnh cũng tùy theo mức độ của bệnh. Ở mức độ nhẹ hoặc mang gene bệnh thì thường là không có biểu hiện gì ra ngoài. Người bị bệnh tan máu bẩm sinh hoàn toàn có thể sống, sinh hoạt và lao động bình thường với điều kiện được theo dõi và được điều trị đầy đủ.
Theo đó, truyền máu và thải sắt là hai phương pháp điều trị cơ bản của bệnh tan máu bẩm sinh. Hiện nay, để chữa khỏi bệnh này chỉ có một phương pháp duy nhất là ghép tế bào gốc tạo máu đồng loài. Tuy nhiên, các bác sĩ chỉ định ghép cho những trường hợp bệnh nhân mắc bệnh ở mức độ nặng và phụ thuộc vào truyền máu. Bên cạnh đó, một điều kiện không thể thiếu là người bệnh cần có người hiến tế bào gốc phù hợp. Các trường hợp không phụ thuộc vào truyền máu hoặc mức độ trung bình hoặc nhẹ thì chỉ cần theo dõi, điều trị truyền máu và thải sắt (nếu cần) là đủ giúp cho bệnh nhân có cuộc sống bình thường như những người khác.
Trước câu hỏi “Kết hôn cận huyết thống có phải là nguyên nhân dẫn đến bệnh tan máu bẩm sinh hay không?”, PGS.TS Lương Thị Lan Anh, Trưởng bộ môn Y Sinh học – Di truyền (ĐH Y Hà Nội) cho biết: Việc kết hôn cận huyết không phải là nguyên nhân chính nhưng dễ tạo điều kiện cho các gene bệnh phối hợp với nhau gây nên bệnh. Theo PGS.TS Lương Thị Lan Anh, tan máu bẩm sinh là đột biến gene lặn, tỉ lệ người mang gene bệnh tại Việt Nam khá cao. Đây là bệnh di truyền nên chỉ truyền từ bố mẹ sang con cái chứ không lây truyền từ người này sang người khác như các bệnh truyền nhiễm khác.
Bên cạnh đó, bệnh Thalassemia không có vaccine phòng bệnh. Vì vậy, để biết được con có bị mắc căn bệnh này hay không thì việc đầu tiên là cần phải xét nghiệm sàng lọc bệnh này ở cả bố và mẹ. Nếu bố mẹ là người mang gene bệnh tan máu bẩm sinh thì có thể chẩn đoán trước sinh cho thai nhi thông qua sinh thiết tua rau (12 tuần) hoặc chọc hút dịch ối (16 - 17 tuần).
Tầm soát, dự phòng sớm để hạn chế trẻ sinh ra bị dị tật

Các chuyên gia trực tiếp trả lời câu hỏi của bạn đọc tham gia chương trình giao lưu trực tuyến trên Báo điện tử Gia đình & Xã hội (Giadinh.net.vn) về thực trạng và các biện pháp phòng chống bệnh Thalassemia. Ảnh: Chí Cường
Kinh nghiệm của thế giới cho thấy, có thể hạn chế 90-95% số trường hợp mắc mới bệnh Thalassemia nếu được tiến hành các biện pháp dự phòng thông qua hạn chế việc kết hôn giữa những người mang gene bệnh đồng thời tiến hành tầm soát, chẩn đoán trước sinh sẽ góp phần phát hiện thêm các trường hợp mắc bệnh ở thai nhi để tư vấn, chỉ định đình chỉ thai nghén với các trường hợp mắc bệnh thể nặng.
Ông Nguyễn Doãn Tú, Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ cho biết, để góp phần giảm số trẻ em bị ảnh hưởng bởi các bệnh tật bẩm sinh, giảm nhẹ gánh nặng của gia đình và xã hội, trong những năm qua, Tổng cục DS-KHHGĐ đã triển khai nhiều hoạt động can thiệp tại cộng đồng nhằm giảm tỷ lệ trẻ em sinh ra bị dị tật. Từ năm 2007, Tổng cục DS-KHHGĐ đã triển khai Chương trình tầm soát, chẩn đoán bệnh tật trước sinh và sơ sinh nhằm mục đích: Phát hiện, can thiệp và điều trị sớm các bệnh, tật, các rối loạn chuyển hóa, di truyền ngay trong giai đoạn bào thai và sơ sinh; giúp cho trẻ sinh ra phát triển bình thường hoặc tránh được những hậu quả nặng nề về thể chất và trí tuệ, giảm thiểu số người tàn tật, thiểu năng trí tuệ trong cộng đồng, góp phần nâng cao chất lượng dân số.
Đề án Tầm soát, chẩn đoán sớm về trước sinh và sơ sinh đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố trên toàn quốc. Đến hết năm 2017, đã có 48,5% phụ nữ mang thai được sàng lọc bằng kỹ thuật siêu âm; 29,7% trẻ mới sinh được sàng lọc sơ sinh 2 bệnh (thiếu men G6PD và suy giáp trạng bẩm sinh).
Riêng bệnh Thalassemia, từ năm 2009, Tổng cục DS-KHHGĐ phối hợp với Bệnh viện Nhi Trung ương triển khai thực hiện nghiên cứu ứng dụng giảm tỷ lệ Thalassemia và giảm tỷ lệ người mắc bệnh Thalassemia ở cộng đồng tại tỉnh Hòa Bình. Đến năm 2013, triển khai mở rộng thêm 5 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Thanh Hóa, Thái Nguyên, Sơn La với mục tiêu giảm tỷ lệ mắc mới Thalassemia tại cộng đồng.
Bên cạnh đó, Tổng cục DS-KHHGĐ cũng thường xuyên tổ chức các hoạt động tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức, chuyển đổi hành vi để người dân tự nguyện tham gia sàng lọc, chẩn đoán, phát hiện sớm người mang gene bệnh tại cộng đồng hoặc tiến hành tư vấn cho các đối tượng nam nữ chuẩn bị kết hôn nhằm hạn chế việc kết hôn giữa những người mang gene bệnh.
Theo ông Nguyễn Doãn Tú, thời gian tới, để thực hiện Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác dân số trong tình hình mới, đặc biệt, thực hiện mục tiêu đến năm 2030 có 70% bà mẹ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh, tật bẩm sinh phổ biến nhất, Tổng cục DS-KHHGĐ đang tích cực triển khai xây dựng Đề án Tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh đến 2030. Trong đó, bệnh Thalassemia là một trong 4 loại bệnh được đưa vào lựa chọn tầm soát để giảm số người mang gene và mắc bệnh, hạn chế số trẻ sinh ra bị dị tật, từ đó, góp phần nâng cao chất lượng giống nòi.
Bên cạnh đó, ngành Dân số sẽ tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, báo đài, các phóng sự trên đài phát thanh, truyền hình; tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, các buổi giao lưu văn hóa, văn nghệ, lồng ghép các thông điệp truyền thông tại các câu lạc bộ ở xã, phường.... Nội dung tuyên truyền giáo dục được tập trung vào nguyên nhân, biểu hiện, cách phòng tránh bệnh tan máu bẩm sinh tại cộng đồng giúp người dân nâng cao nhận thức hạn chế việc kết hôn giữa những người mang gene bệnh và tự nguyện tham gia sàng lọc, chẩn đoán trước sinh để dự phòng bệnh.
Đến đâu để làm xét nghiệm bệnh Thalassemia?
Theo các chuyên gia, để biết mình có mang gene bệnh hoặc mắc bệnh Thalassemia hay không, các bạn trẻ trước khi kết hôn cần đến các cơ sở y tế để làm các xét nghiệm phân tích tế bào máu. Nếu xét nghiệm nhận định là hồng cầu nhỏ thì phải nghi ngờ đến Thalassemia, đặc biệt phương pháp chính xác nhất là phương pháp phân tích gene bệnh Thalassemia hoặc khi đi khám sức khỏe định kỳ, tùy theo kết quả xét nghiệm được thực hiện, người dân có thể biết được mình có nguy cơ mang gene bệnh tan máu bẩm sinh Thalassemia.
Để chẩn đoán xác định một cách chính xác nhất, người dân có thể đến các cơ sở y tế chuyên khoa như: Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương, Bệnh viện Nhi Trung ương, Trung tâm Tư vấn di truyền (ĐH Y Hà Nội), Bệnh viện Huyết học - Truyền máu TPHCM, Bệnh viện Từ Dũ, Bệnh viện Phụ sản Cần Thơ... để thực hiện các xét nghiệm. Hoặc có thể đến Văn phòng Hội Tan máu bẩm sinh Việt Nam tại tầng 6, Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương để được tư vấn trực tiếp miễn phí.
Hà Anh - Mai Thùy

4 nguyên nhân phổ biến gây đau bụng sau sinh và cách khắc phục hiệu quả
Dân số và phát triển - 3 giờ trướcĐau bụng sau sinh không phải lúc nào cũng bất thường vì thời điểm này tử cung đang dần trở lại trạng thái bình thường. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đau bụng có thể là dấu hiệu của một vấn đề tiềm ẩn...

Đầu tư cho trẻ em gái - vun đắp hạnh phúc gia đình, tương lai đất nước
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH - Hưởng ứng Ngày Quốc tế Trẻ em gái 2025, ngành Y tế Nghệ An kêu gọi cộng đồng quan tâm hơn tới sức khỏe, giáo dục và an toàn của trẻ em gái để xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội tiến bộ và nền dân số phát triển bền vững.

U quái buồng trứng có trở thành ung thư không?
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcTừ trường hợp ca phẫu thuật cho một bệnh nhân trẻ bị u quái buồng trứng vừa qua tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội, có nhiều người băn khoăn chưa rõ u quái buồng trứng là gì và có nguy cơ ung thư không?

Dấu hiệu nhận biết 5 loại bệnh phụ khoa thường gặp
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcCác bệnh phụ khoa không chỉ gây ra những khó chịu, ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày mà còn có thể dẫn đến những biến chứng nguy hiểm, thậm chí là vô sinh nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.

Biểu dương trẻ em gái chăm ngoan, học giỏi trong các gia đình tiêu biểu thực hiện tốt chính sách dân số
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH – Sở Y tế Hà Nội vừa phối hợp với UBND phường Long Biên tổ chức Hội nghị biểu dương trẻ em gái chăm ngoan, học giỏi trong các gia đình tiêu biểu thực hiện tốt chính sách dân số nhân Ngày Quốc tế trẻ em gái (11/10).

6 thói quen đơn giản giúp trái tim khỏe mạnh mà không cần thuốc
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcBệnh tim mạch đang là ‘sát thủ thầm lặng’ gây tử vong hàng đầu trên toàn cầu, chiếm tới hơn 30% số ca tử vong. Tuy nhiên, bạn hoàn toàn có thể bảo vệ trái tim của mình mà không cần phụ thuộc vào thuốc. Chỉ với vài thay đổi nhỏ trong lối sống, nguy cơ mắc bệnh tim có thể giảm đi đáng kể.

10 tư thế yoga cần tránh khi bị huyết áp cao
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcTập yoga là giải pháp nhẹ nhàng, thư giãn, có tác dụng cải thiện sức khỏe tổng thể. Tuy nhiên, cần tránh một số tư thế yoga nâng cao hoặc lộn ngược vì có thể gây căng thẳng cho tim, làm huyết áp cao trầm trọng hơn.

10 bài tập tốt nhất cải thiện gan nhiễm mỡ
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcGan nhiễm mỡ là một tình trạng phổ biến, tiềm ẩn nhiều rủi ro nếu không được kiểm soát kịp thời. Bên cạnh chế độ ăn uống hợp lý, tập thể dục đều đặn chính là ‘vũ khí’ hiệu quả để giảm mỡ gan, cải thiện sức khỏe tổng thể và bảo vệ chức năng gan.

Top những thực phẩm giàu sắt cho mẹ bầu dễ tìm và dễ ăn
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcTrong hành trình mang thai, cơ thể người phụ nữ phải hoạt động hết công suất để nuôi dưỡng thai nhi. Chính vì vậy, nhu cầu dinh dưỡng, đặc biệt là vi chất sắt, tăng cao gấp đôi so với bình thường.

Ba không của cụ bà sống thọ 100 tuổi vẫn minh mẫn, hoạt bát
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcMỸ - Cụ bà Ruth Lemay, 100 tuổi, chia sẻ bí quyết sống thọ của mình rất giản dị, bao gồm tránh xa 3 yếu tố nguy cơ với sức khỏe: muối, rượu, thuốc lá.

Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.