Nhiều người dân hiểu lầm là cứ sinh đẻ thoải mái
GiadinhNet - Trong dự thảo Luật Dân số, Bộ Y tế trình 2 phương án để điều chỉnh mức sinh. Trong đó, phương án 1 cho phép các cặp vợ chồng có quyền tự quyết định một cách có trách nhiệm về thời gian sinh con, khoảng cách và số con. Để làm rõ hơn về vấn đề này tránh việc nhiều người dân hiểu lầm là cứ “sinh đẻ thoải mái”, PV Báo Gia đình & Xã hội đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Tân (ảnh nhỏ), Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục DS-KHHGĐ (Bộ Y tế).
Điều chỉnh để phù hợp hơn với điều kiện thực tế
Thưa ông, những ngày vừa qua, nhiều người đã hiểu rằng, phương án điều chỉnh mức sinh trong dự thảo Luật Dân số mang tính “nới lỏng”, đồng nghĩa với việc các cặp vợ chồng được sinh con một cách thoải mái. Điều này có đúng không?
- Trước hết, phải làm rõ vấn đề như thế này. “Nới lỏng” chỉ là một cách nói nôm na vì xét trên phương diện pháp luật, chúng ta chưa bao giờ thực hiện “siết” việc sinh con mà chủ yếu là cuộc vận động để người dân thực hiện sinh ít con, cụ thể là hướng đến mỗi cặp vợ chồng bình quân có 2 con như mục tiêu Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII năm 1993 đã nêu ra. Và khẩu hiệu vận động được nêu ra trong Thông tư 01 năm 1994 là thực hiện mỗi cặp vợ chồng dừng lại ở 2 con để nuôi dạy cho tốt. Đây là khẩu hiệu xuyên suốt trong công tác DS-KHHGĐ hơn 20 năm qua.
Về phương án đưa ra trong dự thảo Luật Dân số, thực ra đây không phải là đề xuất để “nới lỏng” mức sinh mà là nội dung chúng ta đang điều chỉnh. Đó là điều chỉnh mục tiêu của cuộc vận động sinh ít con trước đó cho phù hợp hơn với tình hình thực tế chung của đất nước, sự khác biệt về những kết quả giảm sinh mà các địa phương đã đạt được cũng như thực hiện theo Kết luận 119 của Ban Bí thư ngày 4/1/2016 nhằm duy trì được mức sinh thay thế trong thời gian càng dài càng tốt.
Cụ thể, đối với những địa phương mức sinh vẫn còn cao như các tỉnh miền núi phía Bắc, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên cần tiếp tục thực hiện mục tiêu giảm sinh để đưa mức sinh đạt mức sinh thay thế. Bên cạnh đó, cũng có những xem xét để điều chỉnh lại mức sinh ở một số khu vực có mức sinh thấp như Đông Nam Bộ, TPHCM và một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Còn với những tỉnh đã đạt mức sinh thay thế, cần tiếp tục duy trì thành tựu này.
Xin ông có thể cho biết, tại sao lại có phương án điều chỉnh như vậy?
- Việt Nam đã bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011 và thuộc nhóm những nước có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới. Chúng ta chỉ mất khoảng 17 - 18 năm để chuyển từ giai đoạn già hóa dân số sang dân số già và mất khoảng 20 năm tiếp theo có thể sẽ đạt ngưỡng dân số siêu già.
Bên cạnh đó, chúng ta đã đạt được vững chắc mức sinh thay thế trong vòng hơn 10 năm qua. Nó thể hiện nhận thức và hành vi của người dân đã thay đổi rất nhiều. Từ khi có Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII, phương hướng, đường lối trong công tác DS-KHHGĐ tập trung vào việc vận động để người dân hiểu và chấp nhận việc dừng lại 2 con để nuôi dạy cho tốt. Đến nay, chúng ta đã đạt được mục tiêu ấy, sớm hơn 10 năm so với thời hạn (đạt được năm 2005 so với thời hạn năm 2015).
Tất nhiên, chúng ta không loại trừ một bộ phận người dân có thể hiểu lầm rằng sẽ được đẻ rất nhiều con, nhưng tôi nghĩ, “nhiều” theo quan niệm của họ cũng không thể bằng như trước. Trước đây, bình quân, nếu đẻ ở mức thoải mái, một phụ nữ sẽ có khoảng 5 - 6 người con. Tuy nhiên hiện nay, thực trạng này không còn nhiều. Hay nói cách khác, quy mô gia đình ít con đã được định hình trong nhận thức và hành vi của đại đa số người dân, nhất là giới trẻ.
Do đó, chúng ta phải tính đến những yếu tố tác động qua lại giữa phát triển kinh tế, xã hội và công tác dân số trong thời gian sắp tới. Với tốc độ phát triển kinh tế tương đối nhanh, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh và việc hội nhập với quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam, sẽ có những tác động không nhỏ vào sự biến đổi xã hội nhất là trong hành vi sinh đẻ của người dân. Đây là một trong những lý do chúng ta tiến hành điều chỉnh mục tiêu của cuộc vận động về sinh đẻ cho hợp lý hơn.
Biến thách thức thành cơ hội phát triển
Nếu phương án điều chỉnh mức sinh trên được Quốc hội phê duyệt và đưa vào áp dụng trong thực tiễn, theo ông, sẽ có những thuận lợi và khó khăn như thế nào?
- Phải nói rõ như thế này, không có một phương án nào hoàn hảo cả. Sẽ có những mặt tích cực và tiêu cực. Hiện nay, quy mô dân số của Việt Nam vẫn còn khá lớn; mật độ dân số cao (gấp 5 lần so với mật độ trung bình của thế giới và gấp 2,5 lần mật độ bình quân của châu Á cũng như Đông Nam Á); bình quân ruộng đất thấp. Do đó, nếu dân số của Việt Nam tiếp tục tăng sẽ tạo sức ép trong việc ổn định quy mô dân số cũng như cơ cấu, phân bổ và chất lượng dân số. Hơn nữa, Việt Nam đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng, lực lượng bước vào độ tuổi lao động khá lớn. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp của nước ta cũng khá cao, tạo sức ép về cung ứng việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm hạn chế trên, phải kể đến những mặt tích cực của phương án điều chỉnh này mang lại. Trong tương lai, với nhu cầu phát triển của đất nước và yêu cầu về nhân lực, nếu mức sinh xuống thấp sẽ gây khó khăn cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Làm thế nào để duy trì được nguồn cung ứng lao động một cách liên tục, tránh tình trạng thiếu hụt nhân lực để kéo dài giai đoạn cơ cấu dân số vàng là bài toán chúng ta phải tính đến. Vì vậy, cần có sự điều chỉnh mức sinh giữa các khu vực trên cả nước để đảm bảo sự phát triển bền vững của nguồn nhân lực trong tương lai.
Bên cạnh đó, việc điều chỉnh mức sinh giữa các khu vực sẽ làm chậm lại tốc độ già hóa dân số đang diễn ra nhanh chóng tại nước ta. Hay nói cách khác, nó sẽ kéo dài thời gian chuyển từ già hóa dân số sang dân số già cũng như là siêu già. Đảm bảo tỷ lệ hỗ trợ an sinh xã hội cho người cao tuổi khi tương lai sẽ có nhiều người lao động hơn.
Như vậy, để thích ứng với bối cảnh mới, Tổng cục DS-KHHGĐ đã có những kế hoạch cụ thể như thế nào, thưa ông?
- Hiện nay, chúng ta đang chuyển từ trọng tâm giảm sinh sang ưu tiên hơn đến cơ cấu dân số và chất lượng dân số. Cụ thể, chúng ta chuyển từ việc chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đề về quy mô dân số sang giải quyết toàn diện các vấn đề về dân số cả về quy mô, cơ cấu, phân bổ và nâng cao chất lượng dân số.
Nếu trước đây, chúng ta chỉ xem xét một chiều về việc xử lý các vấn đề về quy mô dân số để tạo điều kiện cho sự phát triển thì hiện nay, chúng ta phải xem xét một cách chặt chẽ, gắn bó hữu cơ hơn những yếu tố về dân số và phát triển, bao gồm dự báo trước những tác động của sự phát triển kinh tế - xã hội ngược trở lại đối với những yếu tố về dân số như mức sinh, mức chết đặc biệt là những biến đổi về cơ cấu dân số như mức sinh giảm, tốc độ già hóa tăng lên…
Bên cạnh đó, lồng ghép chặt chẽ những yếu tố dân số vào trong những quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế ngắn hạn, trung hạn cũng như dài hạn để đảm bảo dân số với khía cạnh con người không chỉ là đối tượng mà còn là mục tiêu đối với toàn bộ quá trình phát triển.
Riêng việc nâng cao chất lượng dân số, đây là một vấn đề rất lớn, đòi hỏi sự chung tay vào cuộc của cả cộng đồng. Nâng cao chất lượng dân số là nâng cao cả về thể chất, trí tuệ và tinh thần để đảm bảo nguồn nhân lực ngày càng cao hơn cho sự phát triển đất nước.
Trân trọng cảm ơn ông!
Chuyển trọng tâm, chứ không phải là “từ bỏ KHHGĐ”
Trong một bài trả lời phỏng vấn Báo Gia đình & Xã hội, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến cho biết: “Ngày 4/1/2016, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành Kết luận số 119-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGĐ; Trong đó: “Ban Bí thư đề nghị Bộ Chính trị trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII xem xét, ban hành Nghị quyết về dân số” và “cần chuyển trọng tâm chính sách dân số từ KHHGĐ sang Dân số và phát triển".
Ở đây cần lưu ý: Chúng ta chuyển trọng tâm, chứ không phải là “từ bỏ KHHGĐ” mà KHHGĐ được thực hiện theo phương thức mới. Rõ ràng, xây dựng và thực hiện chính sách dân số mới mà trọng tâm là “Dân số và phát triển” là một chủ trương mới và rất lớn của Đảng. Thực hiện điều này thực sự là một bước ngoặt lớn cho chính sách dân số của Việt Nam kể từ năm 1961; Đồng thời đòi hỏi nỗ lực lớn trong việc đổi mới tư duy về chính sách dân số và cách triển khai thực hiện...".
Mai Thùy (thực hiện)
Bị thủy đậu khi mang thai nguy hiểm thế nào?
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcTỷ lệ phụ nữ mang thai mắc thủy đậu không cao hơn so với mặt bằng chung tỷ lệ mắc bệnh thủy đậu ở người lớn, tuy nhiên mức độ nghiêm trọng của bệnh thường nặng nề hơn.
Nghệ An tổ chức Hội thi 'Người cao tuổi sống vui, sống khoẻ'
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Hội thi là hoạt động thiết thực nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm cho cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về người cao tuổi. Đồng thời, khẳng định vai trò, sự cống hiến của người cao tuổi đối với mọi mặt của đời sống...
Ung thư buồng trứng có chữa được không?
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcUng thư buồng trứng là căn bệnh thường tiến triển âm thầm và triệu chứng không rõ ràng khiến nhiều người chủ quan, khi đi khám đã ở giai đoạn muộn. Vậy ung thư buồng trứng có chữa được không, làm thế nào để phát hiện sớm?
Có phải trẻ béo phì dễ dậy thì sớm?
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcTrẻ béo phì có nguy cơ cao dậy thì sớm hơn so với trẻ có cân nặng bình thường. Vậy nguyên nhân tại sao trẻ béo phì lại dễ bị dậy thì sớm và có thể phòng ngừa được không?
Phụ nữ mang thai bị đa ối nên điều chỉnh chế độ ăn như thế nào?
Dân số và phát triển - 4 ngày trướcĐa ối là khi lượng nước ối vượt quá mức bình thường ảnh hưởng đến sức khỏe cả mẹ và bé. Mặc dù chế độ ăn không phải là yếu tố quyết định duy nhất nhưng việc điều chỉnh chế độ ăn uống hợp lý có thể hỗ trợ cải thiện tình trạng này.
Giảm nguy cơ sinh non khi bà mẹ được quản lý thai nghén đầy đủ
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcNguy cơ sinh non sẽ được giảm thiểu tối đa nếu thai phụ được khám thai và thực hiện sinh tại cơ sở y tế có đầy đủ phương tiện kỹ thuật cùng đội ngũ y bác sỹ trợ giúp.
Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcGĐXH - Với phương châm "đưa chính sách đến gần dân," xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng triển khai đồng bộ nhiều hoạt động giúp người dân tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng (chăm sức khỏe sinh sản, hỗ trợ người cao tuổi) và phát huy vai trò của đội ngũ cộng tác viên dân số.
Bổ ích hội thi rung chuông vàng tìm hiểu kiến thức về dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcGĐXH - Hội thi giúp cho học sinh nâng cao những kỹ năng hoạt động, kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. Đồng thời, tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích để học sinh thể hiện tài năng, trí tuệ, sự sáng tạo.
Gần 150.000 em bé chào đời nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcSau 25 năm, Việt Nam có gần 300.000 chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm được thực hiện, 147.000 em bé ra đời khoẻ mạnh. Trong đó, có gần 3.000 trẻ được chào đời tại Bệnh viện Hùng Vương nhờ kỹ thuật IVF.
5 biểu hiện cho thấy bạn đã mắc hội chứng ống cổ tay
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcHội chứng ống cổ tay là tình trạng phổ biến trong cộng đồng. Hiện số người mắc hội chứng này ngày càng tăng do liên quan đến công việc có sử dụng nhiều tới độ linh hoạt, tỉ mỉ và lặp đi lặp lại của cổ tay.
Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.