Nỗ lực giảm tỉ lệ tử vong mẹ
GiadinhNet - Đến năm 2015, giảm tỉ lệ chết mẹ còn 58,3 bà mẹ/100.000 trẻ đẻ sống.
![]() |
|
Truyền thông kiến thức làm mẹ an toàn, chăm sóc sức khỏe trẻ em cho phụ nữ vạn đò ở huyện Thạnh Phú, Bến Tre. Ảnh: Dương Ngọc |
|
Về các nguyên nhân trực tiếp gây tử vong mẹ, các nghiên cứu trên còn cho thấy, băng huyết là nguyên nhân hàng đầu (34,7 – 43,4%), sản giật, tiền sản giật là (10,7 – 18,4%), nhiễm khuẩn (7,4 – 14,3%), phá thai không an toàn (5,7%), tắc mạch ối (4,1 – 4,9%), vỡ tử cung (1,6%).
Đẻ non (nhẹ cân) là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong sơ sinh, chiếm 38,1% TVSS toàn quốc và 48,6% TVSS các tỉnh miền núi; ngạt sơ sinh chiếm tỉ lệ tương ứng là 17,5% và 24,9%, nhiễm khuẩn là 13,7% và 15,8% và dị tật bẩm sinh là 8,8% và 10,7%. |
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm trên thế giới có tới 10 triệu ca tai biến sản khoa và 358.000 trường hợp tử vong mẹ - tương đương 1.000 trường hợp tử vong mẹ xảy ra mỗi ngày.
Theo tài liệu của WHO, các tổ chức Liên Hợp Quốc và Ngân hàng Thế giới công bố tháng 10/2010 thì tỉ số tử vong mẹ của Việt Nam đứng thứ 4/10 nước Đông Nam Á (sau Singapore, Malaysia và Thái Lan). Theo số liệu trên, năm 2008, tỉ số tử vong mẹ ở khu vực Đông Nam Á là 160/100.000 trẻ đẻ sống, của Việt Nam chỉ còn 54/100.000 trẻ đẻ sống (thấp hơn của so với số liệu của Tổng điều tra Dân số 2009 do Tổng cục Thống kê công bố năm 2009 là 69/100.000 trẻ đẻ sống).
Trong đánh giá về việc thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ số 4 và 5 đối với 74 quốc gia của Hội nghị cấp cao “Kêu gọi hành động vì sự sống còn của trẻ em” (tổ chức tại Washington DC, Hoa Kỳ từ 14 – 15/6/2012), Việt Nam được là một trong số 8/74 quốc gia đạt tiến độ thực hiện mục tiêu 4 về giảm tử vong trẻ em và là một trong số 9/74 quốc gia đạt tiến độ thực hiện về mục tiêu 5 về giảm tử vong mẹ. Đặc biệt có 3 nước là Việt Nam, Nepal và Guinea Equatorial đạt được mức độ giảm trên 75% tỉ số tử vong mẹ trong giai đoạn từ 1990 – 2010.
So với các quốc gia trong khu vực và các nước Đông Nam Á, tỉ lệ tử vong mẹ trên 100.000 trẻ đẻ sống tại Việt Nam tốt hơn so với Indonesia, Philippines, Myanmar, Campuchia, Lào.
Kết quả điều tra tử vong mẹ ở Việt Nam 2006 – 2007 do Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, Bộ Y tế cho thấy: Tỉ số tử vong mẹ ở khu vực miền núi là 108/100.000, vẫn cao hơn gấp 3 lần so với vùng đồng bằng 36/100.000. Điều tra tử vong mẹ tại 14 tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên do Trường ĐH Y khoa Thái Bình cho thấy tử vong mẹ là 119/100.000, trong đó cao nhất là vùng Tây Bắc 242/100.000, tiếp đến là Tây Nguyên 108/100.000. Tử vong sơ sinh cũng có sự chênh lệch giữa các vùng miền và nhóm dân tộc: Tỉ suất này ở nông thôn miền núi cao hơn 2 lần so với nông thôn đồng bằng, ở các dân tộc ít người cao hơn gấp 2 lần so với người Kinh.
Những nguyên nhân này đều có thể phòng tránh được thông qua việc nâng cao nhận thức và kỹ năng tự bảo vệ cho các bà mẹ. Trong khi đó, theo các nghiên cứu, nếu triển khai tốt các biện pháp chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS), chúng ta có thể tránh được tử vong mẹ lên tới 77,6%. Tuy nhiên, không thể không nhắc đến những khó khăn trong việc cung cấp cơ sở vật chất phục vụ cho công tác CSSKSS.
Mặc dù đã được củng cố trong thời gian qua nhưng mạng lưới CSSKSS ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều yếu kém, nhiều trung tâm CSSKSS tuyến tỉnh đã được xây dựng nhưng đã xuống cấp. Đối với khoa CSSKSS tuyến huyện, ở nhiều nơi chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Ngoài điều kiện làm việc còn khó khăn, đội ngũ cán bộ nói chung ở tất cả các tuyến còn thiếu về số lượng, cơ cấu giữa cán bộ có trình độ đại học với cán bộ trung cấp và sơ cấp cũng còn bất hợp lý.
Để đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ số 5, theo TS Nguyễn Duy Khê: Việt Nam đang nỗ lực không ngừng và phấn đấu giảm tỉ số tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản xuống còn 58,3/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2015. Như vậy, đến năm 2015 ước tính mỗi năm ở Việt Nam vẫn còn 580 - 600 ca tử vong mẹ.
Giải pháp lâu dài và quan trọng là cần tập trung nhân rộng các mô hình được đánh giá hiệu quả về giảm tử vong mẹ và tử vong sơ sinh như: Chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh liên tục từ cộng đồng, gia đình đến cơ sở y tế; Thẩm định tử vong mẹ; Cô đỡ thôn bản ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Đào tạo kỹ năng đỡ đẻ. Đồng thời, cần củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức mạng lưới CSSKSS/SKBMTE từ tuyến trung ương đến cơ sở; đảm bảo chế độ chính sách thu hút cán bộ chuyên môn, đặc biệt là cán bộ giỏi về công tác lâu dài ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa; đào tạo cập nhật kiến thức, nâng cao năng lực cấp cứu sản khoa, sơ sinh cho cán bộ trực tiếp làm công việc chăm sóc SKBMTE theo hướng cầm tay chỉ việc, đào tạo theo kíp, theo địa chỉ, theo nhu cầu; tăng cường giám sát hỗ trợ chuyên môn từ tuyến trên cho tuyến dưới…
8 bước chủ động phòng tránh và giảm thiểu trầm cảm sau sinh
Dân số và phát triển - 7 giờ trướcTrầm cảm sau sinh là một rối loạn tâm trạng nghiêm trọng, gây rủi ro cao cho sức khỏe tinh thần của người mẹ và sự an toàn của trẻ sơ sinh. Tìm hiểu 8 bước tiếp cận quan trọng giúp phụ nữ giảm thiểu nguy cơ trầm cảm sau sinh và vững vàng trong hành trình nuôi con.
Thoái vị đĩa đệm cột sống lưng: Cần làm gì để hết đau?
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH - Chỉ một ngày khi đồng ý phẫu thuật thoát vị đĩa đệm cột sống lưng, cô L. đã có thể tự đi lại và được xuất viện sau 1 tuần.
Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (3): Giải pháp toàn diện và sức mạnh hệ thống chính trị
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH - Sau khi nhìn nhận rõ thách thức từ con số và gốc rễ từ tư tưởng xã hội, cuộc chiến kiểm soát nhằm giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tại Hà Nội bước sang một giai đoạn mới: Giai đoạn hành động sáng tạo và quyết liệt.
Mang thai bị viêm âm đạo ảnh hưởng thế nào đến thai nhi?
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Viêm âm đạo do nấm không gây nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng, nhưng nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến một số bệnh lý cho thai phụ và thai nhi.
Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (2): Nguyên nhân sâu xa và rào cản nhận thức
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) dai dẳng tại Hà Nội không phải là kết quả của sự ngẫu nhiên. Nó là hệ quả trực tiếp của sự xung đột giữa các giá trị tiến bộ về bình đẳng giới và những tư tưởng truyền thống đã ăn sâu vào tiềm thức xã hội.
Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (1): Thách thức lớn cho an sinh và chất lượng dân số Thủ đô
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Hà Nội, Thủ đô với gần 8,8 triệu dân đã đạt được mức sinh thay thế lý tưởng (khoảng 2,1 con/phụ nữ) và đang phấn đấu tiếp tục duy trì mức sinh thay thế trong năm 2025 và những năm tiếp theo. Tuy nhiên, đằng sau thành tựu này, thành phố đang phải đối mặt với một thách thức lớn và dai dẳng là tình trạng mất cân bằng tỉ số giới tính khi sinh.
Đi khám xương khớp nghĩ bệnh tuổi trung niên, người phụ nữ 52 tuổi bất ngờ phát hiện tiền ung thư cổ tử cung
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Đang ở độ tuổi được khuyến cáo tầm soát ung thư cổ tử cung, người bệnh được bác sĩ khuyến nghị thực hiện xét nghiệm HPV. Kết quả cho thấy dương tính với HPV type 1
5 nhóm phụ nữ nên chú ý khám sàng lọc ung thư cổ tử cung
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcSàng lọc ung thư cổ tử cung rất quan trọng để phát hiện sớm và cải thiện đáng kể cơ hội điều trị thành công. Vậy những chị em nào nên đặc biệt chú ý sàng lọc căn bệnh này?
Cô gái 23 tuổi bất ngờ phát hiện nguy cơ ung thư cổ tử cung từ một việc rất nhiều chị em Việt bỏ qua
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcGĐXH - Người phụ nữ phát hiện ung thư cố tử cung hoàn toàn khỏe mạnh, không có biểu hiện bất thường như dịch âm đạo, đau bụng dưới hay rối loạn kinh nguyệt.
Một năm cao thêm 25cm, chàng trai 2m23 đối mặt nhiều nguy hiểm
Dân số và phát triển - 1 tuần trướcTrong một năm, chàng trai 20 tuổi cao thêm 25cm, từ 1m98 lên 2m23; chiều cao vượt trội này không phải biểu hiện của sức khỏe mà anh đang đối mặt với nhiều nguy cơ.
Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.
