Tối ưu hóa khả năng có thai tự nhiên
Các nhà lâm sàng có thể được yêu cầu cho lời khuyên về quan hệ tình dục và thay đổi lối sống để có con.
Hiện nay, không có một tài liệu hướng dẫn tư vấn hay khuyến cáo nào được thống nhất. Bài viết này cung cấp cho các nhà lâm sàng hướng tư vấn dựa trên sự đồng thuận của các chuyên gia, giúp tối ưu hóa khả năng có thai ở những cặp vợ chồng không có tiền căn hay yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.
Khả năng sinh sản và tuổi tác
Khả năng có thai thường ổn định ở mỗi chu kỳ kinh nguyệt, nhưng cao nhất là ở tháng đầu tiên quan hệ không được bảo vệ và sau đó giảm dần. Khoảng 80% các cặp vợ chồng sẽ có thai sau 6 tháng quan hệ thường xuyên. Khả năng này sẽ giảm một nửa ở tuổi gần 40 so với những phụ nữ ở độ tuổi đôi mươi.
Khả năng sinh sản đều có giới hạn về độ tuổi ở cả nam và nữ nhưng ảnh hưởng tuổi lên khả năng sinh sản ở nữ là nhiều hơn. Đối với phụ nữ, khả năng sinh sản sẽ giảm có ý nghĩa ở tuổi 35. Đối với nam, các thông số về tinh dịch đồ cũng có giới hạn ở tuổi 35, nhưng khả năng sinh sản của nam giới không bị ảnh hưởng nhiều trước tuổi 50.
Vô sinh được chẩn đoán khi sau 12 tháng quan hệ không được bảo vệ mà không có thai. Phụ nữ ở tuổi 35 sau 6 tháng mà không có thai được xác định là vô sinh do tuổi tác.

Tần suất giao hợp
Kiêng xuất tinh trên 5 ngày có thể ảnh hưởng lên kết quả tinh dịch đồ. Tuy nhiên, kiêng xuất tinh dưới 2 ngày thì lại cho kết quả tinh dịch đồ bình thường. Điều này xóa bỏ nhận thức sai lầm rằng xuất tinh thường xuyên làm giảm khả năng sinh sản ở nam giới.
Một nghiên cứu hồi cứu phân tích 10.000 tinh dịch đồ cho thấy ở những người đàn ông có chất lượng, mật độ, tỉ lệ di động tinh trùng bình thường, họ xuất tinh mỗi ngày. Ngạc nhiên hơn, những người đàn ông có tinh trùng ít, thì mật độ và tỉ lệ di động cao nhất ở nhóm xuất tinh mỗi ngày. Thời gian kiêng quan hệ thường không ảnh hưởng đến hình dạng tinh trùng, tuy nhiên, nếu kiêng xuất tinh quá 10 ngày thì kết quả tinh dịch đồ thường xấu.
Một nghiên cứu trên 221 cặp vợ chồng có khả năng sinh sản tốt đang có kế hoạch sinh con, kết quả cho thấy tỉ lệ có thai cao nhất là 37% ở mỗi chu kỳ đối với các cặp quan hệ mỗi ngày. Quan hệ cách ngày có tỉ lệ mang thai đạt 33%/ chu kỳ, nhưng tỉ lệ mang thai sẽ giảm 15%/ chu kỳ nếu tần suất quan hệ là mỗi tuần 1 lần. Căng thẳng trong việc mong muốn có thai sẽ làm giảm ham muốn cùng như tần suất quan hệ.
Các tỉ lệ trên có thể giảm đi nếu canh ngày rụng trứAng hoặc tự thiết lập một chế độ quan hệ nghiêm ngặt. Tần suất quan hệ mỗi ngày hoặc cách ngày cho tỉ lệ có thai tối ưu, tuy nhiên còn tùy vào sức khỏe của từng cặp vợ chồng và việc thực hiện đúng khuyến cáo trên có thể gây các căng thẳng không cần thiết.
Cửa sổ thụ thai
Cửa sổ thụ thai là khoảng thời gian mà việc quan hệ cho kết quả có thai cao nhất. Cửa sổ thụ thai tốt nhất là khoảng 2 ngày đến 6 ngày, kết thúc vào ngày rụng trứng. Khoảng thời gian thụ thai cao nhất có thể được ước đoán bằng tính ngày giữa chu kỳ, bộ xét nghiệm đoán ngày rụng trứng hoặc đánh giá đặc điểm chất nhầy cổ tử cung.
Theo dõi rụng trứng
Theo dõi những thay đổi về chất nhầy cổ tử cung, ham muốn tình dục, đau bụng và tâm trạng có thể tiên đoán thời điểm trứng rụng chính xác không quá 50%. Mặc dù không có bằng chứng về việc canh ngày rụng trứng làm tăng tỉ lệ có thai.
Theo dõi đặc điểm chất nhầy cổ tử cung là một biện pháp rẻ tiền và có thể tiên đoán ngày rụng trứng. Khả năng rụng trứng cao nhất khi chất nhầy cổ tử cung trơn và trong.
Thể tích chất nhầy cổ tử cung tăng theo nồng độ estrogen trong máu khoảng 5 - 6 ngày trước rụng trứng và đạt đỉnh 2 - 3 ngày sau rụng trứng. Một nghiên cứu hồi cứu thuần tập quan sát 1.681 chu kỳ cho thấy tỉ lệ có thai cao nhất xảy ra vào ngày lượng chất nhầy cao nhất và thấp hơn 15 - 20% ở những ngày sau. Một nghiên cứu tiến cứu quan sát 2.832 chu kỳ cho thấy có sự tương quan chặt chẽ của đặc điểm chất nhầy cổ tử cung và nhiệt độ cơ thể và có thể tiên đoán chính xác hơn canh theo lịch.
“Quan hệ” vợ chồng
Việc nằm ngửa sau khi “quan hệ” giúp tạo điều kiện cho tinh trùng di chuyển và tránh trào tinh trùng ra ngoài âm đạo là không có cơ sở khoa học. Trong một nghiên cứu, người ta cho các hạt nhỏ đã được đánh dấu vào âm đạo tại nhiều thời điểm khác nhau trong chu kỳ kinh nguyệt và quan sát sự di chuyển vào trong tai vòi ít nhất 2 phút trong pha nang noãn. Một điều thú vị là các hạt đó chỉ được quan sát thấy ở tai vòi bên buồng trứng có nang noãn phát triển vượt trội và không có bên đối diện. Số lượng các hạt được vận chuyển tăng lên tương ứng với kích thước nang noãn vượt trội và sau khi tiêm oxytoxin để mô phỏng sự tiết oxytoxin khi phụ nữ giao hợp và đạt cực khoái.
Không có bằng chứng cho thấy tư thế giao hợp ảnh hưởng đến khả năng thụ thai. Tinh trùng có thể xuất hiện trong kênh cổ tử cung vài giây sau khi xuất tinh bất kể giao hợp ở tư thế nào.
Sự cực khoái ở phụ nữ thúc đẩy vận chuyển tinh trùng, tuy nhiên, không có bằng chứng cho thấy sự cực khoái liên quan đến khả năng thụ thai. Cũng như không có bằng chứng cho thấy hành vi quan hệ ảnh hưởng đến giới tính.
Một số chất bôi trơn có thể làm giảm khả năng thụ thai dựa trên một số quan sát trong phòng thí nghiệm về tỉ lệ sống của tinh trùng trong các chất bôi trơn. Các gel bôi trơn có trên thị trường (KY Jelly, Astroglide, Touch) làm giảm tỉ lệ di động của tinh trùng từ 60 - 100% trong phòng thí nghiệm. KY Jelly, dầu olive, nước bọt pha loãng thậm chí với nồng độ thấp 6,25% cũng gây ảnh hưởng đến sự di động và tốc độ của tinh trùng. Dầu khoáng, dầu cải và hydroxy ethyl cellulose không ảnh hưởng đến sự di động của tinh trùng, tuy nhiên cần thận trọng khi sử dụng.
Đàn ông có chất lượng, mật độ, tỉ lệ di động tinh trùng bình thường, họ xuất tinh mỗi ngày
Chế độ ăn và lối sống
Tỉ lệ có thai giảm ở những phụ nữ gầy hoặc béo phì, tuy nhiên, chưa có nhiều dữ liệu cho thấy chế độ ăn có ảnh hưởng đến sự rụng trứng. Lối sống lành mạnh giúp cải thiện sự thụ thai ở những phụ nữ có rối loạn phóng noãn. Một vài bằng chứng cho thấy một số chế độ ăn như: ăn chay, ăn ít béo, giàu vitamin, các chất chống oxy hóa, thảo dược giúp cải thiện khả năng sinh sản hoặc ảnh hưởng lên giới tính của trẻ. Tích lũy nhiều thủy ngân từ việc ăn cá biển được cho là có ảnh hưởng đến sinh sản. Phụ nữ chuẩn bị mang thai được khuyên uống axít folic (ít nhất 400mcg mỗi ngày) làm giảm nguy cơ dị tật ống thần kinh thai nhi.
Hút thuốc lá:
Hút thuốc lá thực sự gây ảnh hưởng có hại lên việc có thai. Những phụ nữ hút thuốc lá có tỉ lệ vô sinh tăng gấp 1,6 lần, tăng nguy cơ sảy thai cả trong thai tự nhiên lẫn thai IVF và tuổi mãn kinh trung bình sớm hơn từ 1 - 4 năm. Mặc dù việc hút thuốc lá làm giảm số lượng, tỉ lệ di động và hình dạng bình thường của tinh trùng nhưng chưa có nhiều dữ liệu khẳng định hút thuốc lá gây vô sinh.
Bia rượu:
Ảnh hưởng của bia rượu lên khả năng sinh sản chưa rõ ràng. Trong khi một số nghiên cứu cho rằng bia rượu gây ảnh hưởng không tốt, một số nghiên cứu cho thấy bia rượu làm tăng cường khả năng sinh sản.
Uống bia rượu nhiều nên tránh ở phụ nữ chuẩn bị mang thai và chắc chắn phải tránh ở phụ nữ mang thai vì có ảnh hưởng đến thai nhi. Ở nam giới, uống bia rượu không gây ảnh hưởng bất lợi trên tinh dịch đồ.
Cà phê:
Uống một lượng lớn caffein, khoảng 500mg/ngày - tương đương 5 tách cà phê, có liên quan đến việc giảm khả năng sinh sản, tăng nguy cơ sảy thai nhưng không gây các dị tật bẩm sinh. Dùng một lượng caffein vừa phải trước và trong khi mang thai không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản cũng như kết cục thai kỳ. Ở nam giới, uống cà phê không ảnh hưởng lên tinh dịch đồ.
Các vấn đề khác
Ảnh hưởng của cần sa và các chất gây nghiện khác lên khả năng sinh sản khó xác định được vì chúng bị cấm sử dụng. Tuy nhiên, việc sử dụng chất gây nghiện không được khuyến khích ở cả nam giới và phụ nữ vì các tài liệu cho thấy chúng có hại cho thai nhi. Một nghiên cứu cho thấy tỉ lệ vô sinh do không rụng trứng tăng ở những phụ nữ sử dụng cần sa. Ở nam giới bình thường, một số khuyến cáo về thay đổi hành vi hay giảm tiếp xúc tinh hoàn với nhiệt là chưa có căn cứ.
Khả năng sinh sản của phụ nữ có thể bị giảm ở những phụ nữ tiếp xúc với hóa chất tẩy rửa và mực in ấn. Nam giới tiếp xúc với kim loại nặng có thể làm thay đổi các thông số trên tinh dịch đồ.
Tiếp xúc với thuốc trừ sâu làm tăng nguy cơ vô sinh ở phụ nữ. Ở nam giới, tiếp xúc với thuốc trừ sâu được chứng minh làm giảm các thông số tinh dịch đồ. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác thì không có sự liên quan. Phơi nhiễm với thuốc trừ sâu gây ảnh hưởng nghiêm trọng lên khả năng sinh sản đã được chứng minh ở động vật. Mặt dù các bằng chứng còn hạn chế, nhưng nên tránh tiếp xúc với chì và vi sóng. Việc dùng thuốc không kê toa cũng nên cẩn trọng.
Quan hệ thường xuyên mỗi 1 - 2 ngày/lần cho tỉ lệ có thai cao nhất, tuy nhiên, quan hệ 2 - 3 lần/tuần cho tỉ lệ tương đương.
Cửa sổ thụ thai kéo dài khoảng 6 ngày, kết thúc vào ngày rụng trứng có liên quan đến thể tích và đặc điểm chất nhầy cổ tử cung.
Thời gian, tư thế và nằm nghỉ sau giao hợp không ảnh hưởng đáng kể lên khả năng có thai.
Thời gian mong con sẽ tăng theo tuổi, vì thế sau tuổi 35 nên tham khảo ý kiến chuyên gia hỗ trợ sinh sản khi 6 tháng mà không có thai.
Đối với phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt đều đặn, quan hệ thường xuyên ngay khi sạch kinh cho tỉ lệ có thai cao nhất.
Thiết bị dự đoán thời điểm rụng trứng có thể hữu dụng cho các cặp vợ chồng không có cơ hội quan hệ thường xuyên, tuy nhiên, không làm tăng tỉ lệ có thai.
Uống rượu hoặc cà phê vừa phải không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.
Hút thuốc lá, dùng nhiều bia rượu, sử dụng chất gây nghiện hay sử dụng các chất bôi trơn âm đạo có sẵn trên thị trường không được khuyến cáo ở những cặp vợ chồng mong muốn có con.
Theo BS. LÊ LONG HỒ (Bệnh viện Mỹ Đức)/SK&ĐS
Cuộc thi "Rung chuông vàng" nâng cao kiến thức dân số và sức khỏe sinh sản trong trường học
Dân số và phát triển - 8 giờ trướcGĐXH - Thông qua cuộc thi, học sinh được trang bị kiến thức về dân số, phát triển và sức khỏe sinh sản vị thành niên; rèn kỹ năng sống, ứng xử, phòng chống xâm hại và bạo lực học đường. Đây cũng là sân chơi lành mạnh để các em thể hiện trí tuệ, sáng tạo, giao lưu và chia sẻ quan điểm về những vấn đề văn hóa - xã hội.
8 bước chủ động phòng tránh và giảm thiểu trầm cảm sau sinh
Dân số và phát triển - 18 giờ trướcTrầm cảm sau sinh là một rối loạn tâm trạng nghiêm trọng, gây rủi ro cao cho sức khỏe tinh thần của người mẹ và sự an toàn của trẻ sơ sinh. Tìm hiểu 8 bước tiếp cận quan trọng giúp phụ nữ giảm thiểu nguy cơ trầm cảm sau sinh và vững vàng trong hành trình nuôi con.
Thoái vị đĩa đệm cột sống lưng: Cần làm gì để hết đau?
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH - Chỉ một ngày khi đồng ý phẫu thuật thoát vị đĩa đệm cột sống lưng, cô L. đã có thể tự đi lại và được xuất viện sau 1 tuần.
Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (3): Giải pháp toàn diện và sức mạnh hệ thống chính trị
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Sau khi nhìn nhận rõ thách thức từ con số và gốc rễ từ tư tưởng xã hội, cuộc chiến kiểm soát nhằm giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tại Hà Nội bước sang một giai đoạn mới: Giai đoạn hành động sáng tạo và quyết liệt.
Mang thai bị viêm âm đạo ảnh hưởng thế nào đến thai nhi?
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Viêm âm đạo do nấm không gây nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng, nhưng nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến một số bệnh lý cho thai phụ và thai nhi.
Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (2): Nguyên nhân sâu xa và rào cản nhận thức
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) dai dẳng tại Hà Nội không phải là kết quả của sự ngẫu nhiên. Nó là hệ quả trực tiếp của sự xung đột giữa các giá trị tiến bộ về bình đẳng giới và những tư tưởng truyền thống đã ăn sâu vào tiềm thức xã hội.
Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Hà Nội (1): Thách thức lớn cho an sinh và chất lượng dân số Thủ đô
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Hà Nội, Thủ đô với gần 8,8 triệu dân đã đạt được mức sinh thay thế lý tưởng (khoảng 2,1 con/phụ nữ) và đang phấn đấu tiếp tục duy trì mức sinh thay thế trong năm 2025 và những năm tiếp theo. Tuy nhiên, đằng sau thành tựu này, thành phố đang phải đối mặt với một thách thức lớn và dai dẳng là tình trạng mất cân bằng tỉ số giới tính khi sinh.
Đi khám xương khớp nghĩ bệnh tuổi trung niên, người phụ nữ 52 tuổi bất ngờ phát hiện tiền ung thư cổ tử cung
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH - Đang ở độ tuổi được khuyến cáo tầm soát ung thư cổ tử cung, người bệnh được bác sĩ khuyến nghị thực hiện xét nghiệm HPV. Kết quả cho thấy dương tính với HPV type 1
5 nhóm phụ nữ nên chú ý khám sàng lọc ung thư cổ tử cung
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcSàng lọc ung thư cổ tử cung rất quan trọng để phát hiện sớm và cải thiện đáng kể cơ hội điều trị thành công. Vậy những chị em nào nên đặc biệt chú ý sàng lọc căn bệnh này?
Cô gái 23 tuổi bất ngờ phát hiện nguy cơ ung thư cổ tử cung từ một việc rất nhiều chị em Việt bỏ qua
Dân số và phát triển - 6 ngày trướcGĐXH - Người phụ nữ phát hiện ung thư cố tử cung hoàn toàn khỏe mạnh, không có biểu hiện bất thường như dịch âm đạo, đau bụng dưới hay rối loạn kinh nguyệt.
Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.