Thực trạng sức khỏe và đời sống người cao tuổi ở Hải Dương, Quảng Bình và Đắk Lắk
Liên hợp quốc đã dự báo, thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ già hóa, vì thế nhiều nước trên thế giới hiện đang rất quan tâm đến vấn đề già hóa dân số và tìm biện pháp để giảm những ảnh hưởng tiêu cực của nó.
Ở Việt Nam, theo số liệu tổng điều tra dân số 1979, 1989, 1999, tỷ lệ người cao tuổi (60 tuổi trở lên) đã tăng từ 6,7% đến 7,2%, 8,1% và đến cuối năm 2003 là gần 10% trong tổng dân số, gần đến ngưỡng của già hóa dân số mà thế giới quy định. Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề, từ lâu Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến người cao tuổi. Ngày 17/9/1995, Ban Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ra chỉ thị số 59- CT/TW về chăm sóc người cao tuổi. Năm 2000, Chủ tịch Quốc Hội Nông Đức Mạnh đã ký Pháp lệnh Người cao tuổi số 23/2000/PL-UBTVQH10.
I. Thực trạng người cao tuổi tại Hải Dương, Quảng Bình và Đắk Lắk
Điều tra 600 đối tượng ( mỗi tỉnh 200 ) người cao tuổi tại 3 tỉnh cho thấy tuổi thọ trung bình là 69 ( cả nước là 73) và có xu hướng tiếp tục tăng lên. Hai tỉnh Hải Dương và Quảng Bình các đối tượng cao tuổi có tuổi thọ trung bình là 70 tuổi, riêng Đắk Lắk có tuổi thọ thấp hơn (67 tuổi). Số người cao tuổi từ 60-64 chiếm 20,4%, nhóm tuổi từ 65-69 chiếm 27,2%. Nhóm từ 70-79 tuổi chiếm 39%.
Trình độ học vấn và chuyên môn của người cao tuổi tăng lên theo thời gian nhưng tình trạng mù chữ vẫn còn khá phổ biến, nhất là ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Nhóm tuổi càng cao thì trình độ học vấn, chuyên môn càng thấp. Nhóm người trên 80 tuổi có tỷ lệ không biết chữ chiếm 22,4%, cao gấp 10 lần so với nhóm 60-69 tuổi; nhóm 70-79 tuổi có tỷ lệ không biết chữ chiếm 7,3 %, cao gấp 3 lần nhóm 60-69 tuổi.
Một bộ phận đông đảo người cao tuổi đã có những đóng góp xứng đáng trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, một số là cán bộ tiền khởi nghĩa. Trong 3 tỉnh, Quảng Bình là tỉnh có tỷ lệ là Đảng viên cao nhất (16%), bên cạnh đó còn có một số lượng không nhỏ là cựu chiến binh (13.450), chiếm 13.9% và 22 cụ là anh hùng lao động lực lượng vũ trang. Tỉnh Hải Dương cũng là tỉnh có số người cao tuổi là Đảng viên cao (15,14%) trong đó có 10.202 người từ 40-60 năm tuổi Đảng, chiếm 5,88%.
Hiện có một tỷ lệ không nhỏ người cao tuổi ở ba tỉnh không thuộc nhóm đối tượng được hưởng các chế độ hưu trí, nghỉ mất sức lao động hay các chế độ trợ cấp xã hội khác. Tình trạng này có xu hướng gia tăng trong nền kinh tế thị trường và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhóm người cao tuổi.
Điều tra tại 3 tỉnh cho thấy mô hình gia đình của người cao tuổi phổ biến là hai vợ chồng cao tuổi sống cùng con cháu (chiếm 45,5%), hai vợ chồng cao tuổi sống với nhau (chiếm 31,3%), một cụ cao tuổi sống với con cháu (chiếm 16%). Tình trạng người cao tuổi sống cô đơn không nơi nương tựa chiếm tỷ lệ nhỏ (6,3%), và tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 8,7%. Cần giữ vững và khuyến khích mô hình gia đình nhiều thế hệ, tạo điều kiện chăm sóc người cao tuổi.
II. Thực trạng chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi tại các địa phương
Sức khoẻ người cao tuổi tuy đã được nâng cao dần song tình trạng mắc các bệnh nguy hiểm vẫn còn khá phổ biến. Điều tra 597/600 người cao tuổi cho thấy 72,4% mắc các bệnh nghề nghiệp hoặc bệnh mãn tính. Điều đặc biệt khi xem xét tình trạng mắc các căn bệnh nghề nghiệp, bệnh mãn tính thì nhóm 60-69 chiếm tỷ lệ cao nhất (47%).
Tình trạng bệnh tật của người cao tuổi khá nghiêm trọng, thường mắc nhiều chứng bệnh cùng một lúc, tỷ lệ mắc hai loại bệnh chiếm 26,1%, mắc trên hai loại bệnh chiếm 13,3%. Các chứng bệnh về xương khớp chiếm tỷ lệ cao nhất (18,8%), tiếp đến là các bệnh thần kinh chiếm 8,5% và bệnh huyết áp 8,2%, bệnh tim mạch 4,3 %.
55,5% người cao tuổi điều trị bệnh tại bệnh viện, con số này ở khu vực thành thị là 67,5%, và khu vực nông thôn là 43,3%. Hệ thống bệnh viện cơ sở thiếu gây khó khăn trong việc chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi khu vực nông thôn. Tại khu vực nông thôn 26,4% người cao tuổi khám và điều trị bệnh tại cơ sở y tế của tư nhân.
Nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người cao tuổi ngày càng tăng, tỷ lệ người cao tuổi điều trị 1 lần trong vòng 12 tháng qua chiếm 29,6%, điều trị 2 lần chiếm 28,7%, điều trị 3 lần chiếm 15,8%, điều trị 4 lần chiếm 9,3%, và điều trị từ 5 lần trở lên chiếm 16,7%. Số lần điều trị trung bình trong vòng 12 tháng qua là 4,4 lần. Nhu cầu khám và điều trị giữa hai khu vực thành thị và nông thôn không có nhiều khác biệt song ở khu vực nông thôn một tỷ lệ không nhỏ nhu cầu khám chữa bệnh chưa được đáp ứng.
Hiện nay, một bộ phận không nhỏ người cao tuổi chưa được quan tâm chăm sóc. Điều tra cho thấy chỉ có 33,7% người cao tuổi nhận được sự giúp đỡ thường xuyên từ xã hội, tỷ lệ này ở khu vực nông thôn chỉ có 16,6%, không thường xuyên là 30,5%, ở khu vực nông thôn tỷ lệ này là 45,4%, không bao giờ nhận được sự giúp đỡ là 35,8%. Đối tượng thường xuyên giúp đỡ người cao tuổi chủ yếu là người thân trong gia đình, chiếm 68,2%.
Cơ chế khám chữa bệnh cho người cao tuổi còn chưa được quan tâm đúng mức, tình trạng người cao tuổi phải tự bỏ tiền để được khám chữa bệnh là phổ biến (53,8%). Do đó chi phí cho khám chữa bệnh trở thành gánh nặng cho người cao tuổi và gia đình. ở khu vực nông thôn, tỷ lệ người cao tuổi tự bỏ tiền để khám bệnh chiếm 68,5%, cao gần gấp đôi khu vực thành thị.
Chế độ khám chữa bệnh theo bảo hiểm y tế và thẻ khám chữa bệnh còn nhiều hạn chế, chiếm tỷ lệ tương ứng là 34,1% và 2,9%. Nhiều nhóm người cao tuổi chưa được bảo hiểm y tế và phải tự bỏ tiền để khám, chữa bệnh như: nhóm người cao tuổi cô đơn là 85,7%, người có công là 73,7%, nhóm người cao tuổi không được hưởng các chế độ của Nhà nước chiếm hơn 90%.
Ngoài ra, chất lượng khám chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế và thẻ khám bệnh còn thấp. Chất lượng chăm sóc sức khoẻ theo chế độ bảo hiểm y tế được người cao tuổi đánh giá là tốt chiếm 45%, thấp hơn mức chung, đánh giá trung bình là 48,5% và kém là 6,5%.
Đặc biệt, có một tỷ lệ không nhỏ các cụ có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ song chưa được đáp ứng. ở nhóm các người cao tuổi không thuộc đối tượng được hưởng các chế độ của nhà nước và xã hội chiếm tỷ lệ cao nhất (48,9%) trong tổng số 131 cụ có lý do không đi khám bệnh.
III. Chăm lo đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người cao tuổi tại các địa bàn điều tra
Thu nhập của người cao tuổi hiện nay còn thấp, 19,7% có mức thu nhập bình quân một tháng dưới 100 nghìn đồng. ở khu vực nông thôn tỷ lệ này là 27,9% cao gấp hơn 2 lần khu vực thành thị; 55,8% có mức thu nhập từ 100-500 nghìn đồng, 17,5% có mức thu nhập từ 500 nghìn - 1 triệu đồng. Tỷ lệ người cao tuổi có mức thu nhập trên 1 triệu đồng/tháng chiếm 7%, và tỷ lệ này ở khu vực thành thị cao gấp 5 lần ở khu vực nông thôn.
Khả năng lao động, trí tuệ, kinh nghiệm ở nhóm người cao tuổi từ 60-69 phát huy tốt, đây là nhóm có nguồn thu nhập từ hoạt động kinh tế cao nhất. Nhóm tuổi từ 60-64 có mức thu nhập trên 2 triệu đồng chiếm tỷ lệ 44,4% cao gấp 2 lần nhóm 65-69 và gấp 4 lần nhóm 70-74.
Lương hưu là một khoản thu nhập quan trọng của người cao tuổi, chiếm 36,5%. Tuy nhiên, tỷ lệ người cao tuổi có lương hưu ở khu vực nông thôn còn thấp so với khu vực thành thị, 23,2% so với 49,7%. Ngoài ra các khoản trợ cấp mất sức, trợ cấp xã hội ở khu vực nông thôn cũng thấp hơn.
Giữa các nhóm đối tượng người cao tuổi có sự phân hoá mạnh về mức sống. Tỷ lệ người cao tuổi sống thiếu thốn và rất thiếu thốn còn rất cao ở các nhóm đối tượng cô đơn, tàn tật và hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên. 85,7% người cao tuổi cô đơn sống trong tình trạng thiếu thốn và rất thiếu thốn, nhóm đối tượng hưởng chế độ trợ cấp xã hội thường xuyên là 40%, nhóm người cao tuổi được hưởng tiền tuất liệt sỹ cũng còn 39,1% sống thiếu thốn và nhóm người cao tuổi nghỉ chế độ 176 có 32% sống thiếu thốn và rất thiếu thốn.
Tuy cuộc sống còn nhiều khó khăn, song đời sống văn hoá tinh thần của người cao tuổi hiện khá đa dạng và thường xuyên được cải thiện, 71,2% người cao tuổi thường xuyên tham gia các hoạt động văn hoá, 20,5% không thường xuyên và chỉ có 8,3% chưa bao giờ tham gia các hoạt động văn hoá. So sánh giữa hai khu vực thành thị và nông thôn thấy có sự chênh lệch.
Trong các hoạt động sinh hoạt văn hoá của người cao tuổi hiện nay,<!--<H2>Table 1</H2>--> Hội người cao tuổi là tổ chức gắn bó mật thiết nhất với sự tham gia của 68,8% người cao tuổi. Ngoài ra, người cao tuổi còn tham gia sinh hoạt ở một số hội như hội bảo thọ 9,7%, hội cựu chiến binh 8,9%, hội phụ nữ 6,4%, hội chữ thập đỏ 3,4%, hội làm vườn ở địa phương 1% và 1,8% tham gia các hội khác.
Số liệu điều tra cho thấy, cứ 100 người cao tuổi thì có 8 không được tiếp cận thông tin hàng ngày qua sách, báo, đài, tivi… Nguyên nhân phần lớn là do điều kiện kinh tế còn khó khăn, (chiếm 51,9%) trong đó khu vực nông thôn là 54,2%, không mua được sách báo chiếm 20,4%, không có thời gian rảnh rỗi chiếm tỷ lệ nhỏ 7,4% và không thích là 3,7%.
Như vậy, qua điều tra 12 xã phường của 3 tỉnh việc chăm sóc sức khoẻ, chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần cho người cao tuổi có nhiều vấn đề đáng quan tâm. Đặc biệt người cao tuổi sống ở nông thôn (chiếm trên 70%) hiện vẫn chưa được sự quan tâm chăm sóc về sức khoẻ, về đời sống vật chất cũng như tinh thần của cơ sở. Bởi vậy, Nhà nước cần sớm có chính sách cụ thể đối với người cao tuổi ở nông thôn, đặc biệt là những người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên.
10 loại thực phẩm cải thiện testosterone - tăng bản lĩnh cho phái mạnh
Dân số và phát triển - 6 giờ trướcDuy trì nồng độ testosterone tối ưu là điều cần thiết cho sức khỏe tổng thể, đặc biệt là khi nam giới lớn tuổi. Một trong những cách hiệu quả và tự nhiên nhất để tăng nồng độ testosterone là thông qua chế độ ăn uống.
Tỏa sáng bản lĩnh và ước mơ qua hội thi “Là con gái để tỏa sáng” ở Nghệ An
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH - Hội thi Là con gái để tỏa sáng tại Nghệ An giúp nâng cao kiến thức về dân số và phát triển. Trẻ em gái có cơ hội thể hiện tài năng và tìm hiểu sức khỏe sinh sản.
Quan niệm sai lầm về kiêng khem trong chế độ ăn uống của mẹ sau sinh
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcChế độ ăn uống sau sinh đóng vai trò thiết yếu trong việc phục hồi sức khỏe của người mẹ và đảm bảo chất lượng sữa cho em bé. Tuy nhiên, nhiều nơi còn tồn tại rất nhiều quan niệm sai lầm trong ăn uống sau sinh.
Luật Dân số: Thể chế hóa việc chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển
Dân số và phát triển - 1 ngày trướcGĐXH – Việc xây dựng dự án Luật Dân số nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ để góp phần thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về dân số và khắc phục các hạn chế, tồn tại, đáp ứng yêu cầu công tác dân số và phát triển trong tình hình mới.
Thai phụ 41 tuổi dọa vỡ tử cung trên sẹo mổ cũ 2 lần may mắn thoát nguy hiểm
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcGĐXH - Sản phụ thai 38 tuần, ngôi ngược, chuyển dạ lần 3 trên nền vết mổ lấy thai cũ 2 lần, đoạn dưới tử cung giãn mỏng, nguy cơ dọa vỡ trong chuyển dạ, đe dọa đến tính mạng cả sản phụ và thai nhi.
Mẹ bầu bị COVID-19, con có thể tăng nguy cơ mắc chứng tự kỷ
Dân số và phát triển - 2 ngày trướcCOVID-19 giống như nhiều bệnh nhiễm trùng khác trong thai kỳ có thể gây rủi ro cho người mẹ và cả thai nhi. Nó có liên quan đến nguy cơ mắc các rối loạn phát triển thần kinh cao hơn bao gồm chứng tự kỷ ở trẻ.
Người già khôn ngoan không bao giờ bàn luận 4 điều này với con vì họ biết nói ra dễ xung đột và căng thẳng!
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcSau khi nghỉ hưu, những người cao tuổi thực sự khôn ngoan sẽ không bao giờ thảo luận bốn điều này với con cái của mình.
Đau bụng bất thường, thai phụ 32 tuần tuổi bất ngờ phát hiện viêm ruột thừa biến chứng nguy hiểm
Dân số và phát triển - 3 ngày trướcGĐXH - Sản phụ bị viêm ruột thừa nhập viện trong tình trạng đau cứng bụng, ban đầu đau thượng vị sau đau bụng hố chậu phải lan ra sau lưng.
3 cách phòng ngừa viêm đường tiết niệu ở phụ nữ mang thai
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcNhận biết các yếu tố nguy cơ và thực hiện các bước phòng ngừa có thể giúp phụ nữ mang thai giảm thiểu nguy cơ mắc viêm đường tiết niệu, đảm bảo sức khỏe trong suốt thai kỳ.
Estrogen có liên quan gì đến ung thư vú?
Dân số và phát triển - 5 ngày trướcCó nhiều yếu tố nguy cơ gây ung thư vú trong đó có ảnh hưởng của hormone nữ estrogen. Mối liên hệ này là gì và những phụ nữ nào có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi yếu tố này?
Giao lưu trực tuyến: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên và tầm quan trọng của tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn
Dân số và phát triểnGĐXH - Theo các chuyên gia, sức khỏe sinh sản của vị thành niên, thanh niên được coi là một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi.